Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên thăng được bình Dương là gì?

Sau cuộc hội đàm với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng ngày 25/7, Tổng thống Obama phát biểu: “Chúng tôi cam kết hoàn thành hiệp định này trước cuối năm nay vì chúng tôi biết rằng, nó có thể tạo thêm công ăn việc làm và tăng đầu tư trong khu vực cũng như cho cả hai quốc gia”.

Mỹ và Việt Nam là hai trong số 11 nước hiện đang tham dự thương thảo TPP trong vòng 3 năm qua. Nhật Bản cũng vừa trở thành thành viên thứ 12 vào ngày 23/7 vừa qua.

Đây là hiệp nghị của thế kỷ XXI, giúp tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, xúc tiến các mục tiêu phát triển và giúp tạo việc làm ở Việt Nam, Mỹ và các nước thành viên TPP khác, trong khi tính đến sự đa dạng về trình độ phát triển của các thành viên trong khuôn khổ một thỏa thuận thăng bằng và toàn diện.

Chủ toạ nước Trương Tấn Sang hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng ngày 25/7

Tại diễn đàn cộng tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) tháng 11/2011, lãnh đạo các nước Mỹ, Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam đã ban bố phác thảo chung của TPP mà các bên mong muốn hoàn thành trong năm 2012. Khi có hiệu lực, TPP sẽ loại bỏ 11.000 dòng thuế của các bên, 26 chương đang thương thuyết và có khả năng sẽ đóng vai trò như một khuôn mẫu cho các điều ước mậu dịch trong ngày mai của các nước thuộc APEC. Trong cuộc gặp, lãnh đạo các nước Nhật, Canada và Mexico đã bày tò mong muốn thảo luận với các nước đối tác hướng tới việc dự vào các cuộc thương thuyết.

TTP do Singapore, New Zealand và Chile xây dựng lần đầu vào năm 2003 như một lịch trình tự do hóa thương mại trong khu vực Châu Á - thái hoà Dương. Brunei dự thương thảo năm 2005 và TTP có hiệu lực từ năm 2006. Tháng 3/2008, Mỹ dự đàm phán nhằm ban hành các quy định về đầu tư và dịch vụ tài chính. Mỹ đã ký kết các hiệp định thương mại tự do với các thành viên TPP là Singapore, Chile và với các bên dự thương thuyết TPP là Australia và Peru. Tổng thống Bush đã thông tin với Quốc hội Mỹ ý định thương thảo với các thành viên TPP hiện hữu vào ngày 22/9/2008 và với các thành viên tiềm năng khác là Australia, Peru và Việt Nam ngày 30/12/2008. Nhóm 8 nước này đã qua 3 cuộc thương thuyết trong năm 2010. Malaysia là đối tác thương thuyết thứ 9 được gia nhập năm 2010 và nước này đã dự vòng thương thuyết thứ tư vào tháng 12/2010 tại New Zealand.

Ngày 14/11/2009, Tổng thống Obama cam kết cho Mỹ tham gia với các nước thuộc TPP “với mục tiêu định hình một thỏa thuận khu vực rộng mở với tiêu chuẩn xứng tầm một hiệp định thương nghiệp của thế kỷ XXI”.

Các nhà phân tích tin rằng, việc hấp thụ Mỹ có vai trò thúc đẩy sự gia nhập của các nước Châu Á - Thái Bình Dương khác. Bằng cách này, TPP được xem như một nền tảng để xây dựng một khu vực mậu dịch tự do Châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP) lớn hơn. Bước đi có nhiều ý nghĩa ở chỗ nó sẽ được xem như một chính sách của Mỹ đáp lại sự tiến triển mau chóng các kết liên chiến lược và kinh tế giữa các nước châu Á, một vài nước trong số đó đã loại bỏ Mỹ và các nước châu Mỹ những năm gần đây. Tại phiên thương thuyết trước nhất, Bộ trưởng thương nghiệp New Zealand, Tim Groser lập luận rằng, Mỹ sẽ dùng TTP “như một công cụ cốt tử để đưa Mỹ vào cuộc chơi của khối Châu Á - yên bình Dương”. Ông cũng nói thêm rằng, giá trị gia tăng của TPP với Mỹ là nhằm mở mang với các nước khác “nên điều đó chỉ có ý nghĩa về mặt của siêu cường kinh tế số một thế giới nếu nó thực sự là một nền móng tạo một cái gì đó to lớn hơn”.

Một số quan sát viên tin cậy việc gia nhập TTP sẽ mở mang thương nghiệp của Mỹ với châu Á song song củng cố các mối quan hệ của Mỹ trong khu vực. Mỹ vẫn là đối tác thương nghiệp hàng đầu của hầu hết các nước châu Á. Dù vậy, vai trò của Mỹ với tư cách là đối tác thương mại của nhiều nước châu Á đang giảm sút. Sự lo lắng trong các chính sách của Mỹ và của các nhà phân tích thương mại là Mỹ có nguy cơ bị cô lập vì không có phản ứng với sự gia tăng đột biến về số lượng các hiệp định thương mại nảy ở châu Á những năm gần đây, đóng vai trò như một yếu tố mấu chốt đằng sau các quyết định nhằm vấn thêm nhiều sự chú ý của các mô hình thuộc khu vực châu Á, trong đó có TPP. Nhờ tham gia TPP mà Mỹ đã bắt đầu đổi thay cơ cấu hoạt động này bằng cách nạm gia nhập khối thương mại mới này, song song định hình nó phù hợp với nước Mỹ ngày nay.

Một bức tranh tương đối toàn diện về “được, mất” của Việt Nam khi tham dự hiệp nghị TPP đã được thể ngày nay hội thảo ngày 26/3/2013 tại Hà Nội do Cơ quan cộng tác Quốc tế Mỹ (USAID) và Bộ công thương nghiệp tổ chức. Trong đó, quan điểm của GS Peter Petri, Đại học Brandeis cho rằng, Việt Nam có thể là nước hưởng lợi nhiều nhất trong số 12 đối tác thương lượng TPP nghe đâu không lấn át được những rủi ro mà các chuyên gia Việt Nam nêu lên tại hội thảo.

Ông Petri tới Việt Nam với nhân cách là cố vấn cao cấp của Dự án Hỗ trợ Thi hành Pháp luật về Hội nhập Kinh tế (USAID/STAR Project), tính hạnh khi TPP đi vào hiện thực, Việt Nam sẽ tăng thu GDP thêm khoảng 26,2 tỉ USD nếu chưa tính Nhật Bản và là 25,7 tỉ nếu gồm cả thành viên thứ 12 này.

Tuy nhiên, “miếng bánh” TPP theo quan điểm các chuyên gia Việt Nam lại không ngọt như vậy. Bà Phùng Thị Lan Phương, Ban Thư ký trọng điểm WTO (Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam) cho biết, cộng đồng doanh nghiệp quan ngại về yêu cầu cỗi nguồn xuất xứ trong TPP cao và phức tạp trong khi nguyên liệu hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt những ngành như may mặc, giày dép, lại cốt yếu phải nhập từ các nước ngoài TPP. Tính bảo hộ sở hữu trí não cao mà Mỹ đặc biệt nhấn mạnh cũng gây ra những lo ngại tới khả năng tiếp cận thuốc chữa bệnh cho người dân Việt Nam cũng như dịp tiếp cận tri thức, khoa học, tài sản văn hóa, tinh thần…

Ông Ngô Chung Khanh, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thương nghiệp đa biên (Bộ Công Thương) cũng lo ngại nguyên tắc “chỉ tiến không lùi”, hay “bước chân đi cấm kỳ trở lại” trong TPP là một nguyên tắc khó cho Việt Nam. Ông Khanh lấy thí dụ: Nếu cơ quan hoạch định chính sách thử cho nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 51% cổ phần nhưng sau một thời kì thấy chính sách đó không ổn thì không thể quay đầu lại nữa, đòi hỏi cơ quan quản lý và hoạch định chính sách phải có bổn phận và thận trọng hơn.

Ông Khanh cho biết, bên cạnh một số lo ngại thì Việt Nam cũng kỳ vọng TPP sẽ là cú hích cho xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và cải cách.

Giảng giải lý do vắng mặt của Trung Quốc trong sân chơi TPP, học giả Trung Quốc Zhu Wenhui cho rằng TPP như một “mạng lưới quyền lực mềm mà Mỹ đang phủ quanh Trung Quốc”.

Theo học giả này, với vị thế là đối tác lớn nhất trong hiệp định, Mỹ đang phát triển TPP thành một tổ chức có sức ảnh hưởng cao trong khu vực; song song chịu sự chi phối lớn từ phía Mỹ. Qua đó, học giả này đưa ra lời cảnh báo, những sức ép trong mai sau về cộng tác kinh tế khu vực sẽ khiến Trung Quốc phải tham dự vào TPP và sẽ bị kìm hãm trên nhiều lĩnh vực phê chuẩn những khuôn khổ ràng buộc và luật chơi do Mỹ đặt ra.


H.Phan(Tổng hợp)