Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Những tập tục kỳ lạ - Kỳ 4: chuyện trò bằng “mật ngữ”

Đi tìm “mật ngữ”

Có thể bạn đã đi đến những vùng đất bóng gió, thâm u nhất của thế giới, có thể bạn nói được nhiều ngoại ngữ như “cháo chảy” nhưng tôi tin bạn cũng sẽ phải “đực mặt”, ngẩn tò te khi nghe dân làng Phú Hải (xã Hải Ba, H.Hải Lăng)... Trò chuyện.

Với sự tò mò cực độ, hành trình đi tìm ngôn ngữ lạ của tôi cũng lạ không kém. Tôi chẳng thể trách sự “không sâu sát” của chính quyền xã Hải Ba khi cán bộ của họ lắc đầu trước vài câu hỏi về “mật ngữ” làng Phú Hải. Loay hoay trong làng gần cả tiếng đồng hồ mà không thể “cạy miệng” ai trò chuyện mật ngữ, toan bỏ cuộc thì bỗng có một ông lão như từ trên trời rơi xuống cất tiếng gọi: “Chú nhà báo, có tìm nữa cũng không ai nói cho đâu, vào đây ông bày cho”.


Theo ông Trần Vụ, mật ngữ làng Hải Phú có mối can hệ khắn khít với chữ Hán tượng hình - Ảnh: Nguyễn Phúc

Nhấp ngụm trà đặc quánh, ông lão có tên Trần Vụ (80 tuổi) cười khà: “Dân làng không ích kỷ hay làm khó chú đâu nhưng đứa ở đây luôn có tính thận trọng, vì họ đâu biết chú là ai, lo chú phát tán mật ngữ bừa bãi ra bên ngoài. Phần nữa, có nhiều người nói được, nghe được nhưng để giảng giải cặn kẽ thì họ chịu”.

Tôi gấp phân bua, những người dân ở Phú Hải đa số là nông dân chân chất vậy thì họ tạo ra và cần cái thứ tiếng nói bí ẩn ấy để làm gì?

Để trả lời câu hỏi, ông Vụ đưa tôi về một dĩ vãng xa xưa, xưa đến mức người kể cũng chả biết cách hiện tại mấy trăm năm nữa. “Dạo đó, ở trong làng có một ông thầy pháp rất cao tay ấn, danh nổi như cồn. Khi ông về với đất, đám đệ tử của ông kế nghiệp cũng không tệ. Cái nghiệp đó kéo dài đến tận hiện thời, bởi trong làng giờ vẫn còn nhiều người “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Ngôn ngữ bí ẩn của làng Phú Hải một phần nào đó từ cái nghề này mà ra”, ông Vụ giảng giải. Bản thân ông Vụ cũng là một thầy cúng có tăm tiếng trong vùng. Chắc cũng vì lý do này mà nhiều người kháo nhau rằng mật ngữ ở Phú Hải là ngôn ngữ của... Người cõi âm.

Từ mục đích ban sơ là để giấu bí mật nghề nghiệp, mật ngữ làng Phú Hải bỗng chốc phổ biến thành ngôn ngữ giao dịch của mỗi gia đình và cả cộng đồng. Về sau, trong chiến tranh, mật ngữ được khai hoang triệt để. Với mật ngữ, dân làng Phú Hải có thể nói chuyện choang choang kể cả khi trong nhà có khách. Còn khi giặc đến nhà, họ vẫn bàn luận, bàn mưu tính kế như không. “Chúng tôi nói tiếng này, đố thằng giặc nào nghe được. Vậy nên hồi đó, một số cán bộ của ta đã nhờ tôi dạy cho mẹo nói này để giao du, giữ bí hiểm”, ông Vụ móm mém chép miệng.

Dưới đây là một đoạn đối đáp đơn giản của ông Vụ với con trai là anh Trần Phú Quyền Quý (53 tuổi) bằng mật ngữ:

- Khẩu náp chưa? (Ăn cơm chưa?)

- Chưa khẩu. (Chưa ăn)

- Khẩu náp khẩu thất chi? (Ăn cơm với chi?)

- Có duộc, chấm chin, hành man. (Có thịt, cá, canh)

- Tỏi mại ông cây nghe. (Đi mua thêm chai rượu nghe).

Hàn ôn một hồi lâu, ông Vụ mới chịu “phi lộ” cho tôi cái mẹo mật ngữ của làng. Ông bảo, cái cốt của mật ngữ phụ thuộc vào chữ Hán và họ dùng cách trố chữ rất khéo léo. Thí dụ, “hành” nghĩa là “đi” nhưng người Phú Hải phát âm là “tỏi” (mối liên tưởng ở đây là do cây tỏi cùng họ với cây hành). Chữ “khẩu” nghĩa là “miệng” nhưng khi người Phú Hải nói “khẩu” tức thị “ăn” (ở đây diễn giải là nếu không có miệng thì làm sao mà ăn).

Có khi họ lại vận vào hình trạng của ký tự chữ Hán vốn là chữ tượng hình để diễn dịch rồi tiếp tục biến tấu qua hệ thống từ địa phương. Tỉ dụ như chữ “chủ” (gia chủ, chủ nhà) theo cách viết của chữ Hán thì có 1 dấu phẩy ở trên đầu, từ đây dân Phú Hải nói “chấm óc” (óc là đầu) thì tức thị chủ nhà. Hao hao, chữ “ngư” (cá) trong ký tự chữ Hán phía dưới có mấy dấu phẩy thì dân Phú Hải gọi “chấm chin” (chin là chân) thì nghĩa là con cá...

Nhưng phần lớn từ ngữ trong bộ mật ngữ của làng Phú Hải là không lý giải được hoặc có lý giải nghe cũng không mấy xuôi tai. Theo ông Vụ thì các bậc ông cha ngày trước nghĩ ra được một số chữ có logic, một số không nghĩ ra được thì họ quy ước theo kiểu cứ phát âm như vậy tức thị cái đó, lâu rồi thành quen. Tỉ dụ như “mại” là mua, “ông cây” là rượu, “thổi” là nước, “thượng sơ nghéo” là con gái...

Giữ giàng tiếng làng

Ông Vụ có 9 người con và ai cũng biết mật ngữ, mấy đứa cháu bé tí của ông cũng biết lõm bõm. “Trong làng ni từ già đến trẻ đều biết hết. Người về làm dâu làm rể làng này chịu khó tí cũng biết. Nhưng đứa không chịu khó để ý thì cũng như người câm điếc”, ông Vụ chắc nịch. Vừa lúc đứa cháu ngoại về, ông Vụ ngay thức thì biểu diễn cho khách xem. Ông nói: “Tèo, tương thổi qua cho vưu” thì tức thời thằng nhóc bưng nước qua mời ông Vụ. Ông Vụ cười khà bảo: “Đó, chú thấy chưa”.

Từ đời ông dạy cho đời cha, từ đời cha lại truyền cho đời cháu nhưng để giỏi mật ngữ người học cần phải am hiểu chữ Hán. Theo ông Vụ thì cả làng hiện chỉ có các ông Tiểng, ông Sắt, ông Tranh và ông là có khả năng diễn giải ngữ nghĩa của mật ngữ nhưng hầu hết đã bước qua tuổi 80. “Lứa trẻ đời sau cốt tử là học vẹt, học thục. Nói đó biết đó nhưng hỏi ngược lại vì sao lại thế thì chịu”, ông Vụ nói.

Dù vậy khi tôi giãi bày sự lo âu “liệu mật ngữ sau này có thất truyền?”, ông Vụ nói ngay: “Không, không bao giờ”. “Ngôn ngữ của làng tôi vẫn được mọi người dùng trong giao tiếp hằng ngày. Hơn nữa nghề thầy cúng của làng vẫn còn vượng. Dù chẳng có đua nhưng ai cũng tự biết mà học nếu không sẽ trở nên người thừa trong làng”, ông Vụ lý giải.

Nguyễn Phúc