Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

"Sông dài" lên thêm sóng VTV9 từ 1/8


Tuy là thanh niên đơn thân nhưng ông Hai Tuất (Thành Nam đóng) vẫn nhận nuôi một bé gái bị bỏ rơi từ ngày sơ sinh. Mặc cho mẹ và em gái ngăn cản, ông càng dành nhiều tình yêu thương cho đứa con nuôi tên Lượm khi phát hiện em bị mù do kiến ăn giác mạc.

Ông Hai Tuấn nhận nuôi Lượm từ nhỏ dù cô bị mù cả hai mắt

Trong một lần khi cha đi làm xa chưa về, Lượm (Vân Trang đóng) lần đường xuống bếp nấu cơm, chẳng ngờ khiến lửa cháy lan vách lá gây nên vụ hỏa hoạn. Nếu không nhờ thằng Niễng (Quý Bình đóng) chăn trâu gần đó nhìn thấy chạy đến cứu, Lượm đã bị thiêu chết cùng căn nhà. Sau tai nạn này, Lượm và Niễng trở thành đôi bạn thân.

Lượm và Niễng ngày càng gắn bó

Thời kì trôi qua, Lượm lớn lên thành một thiếu nữ đẹp và được nhiều người dòm nom. Có không ít kẻ dã tâm lợi dụng chuyện cô bị mù để làm chuyện xấu. May thay lần nào cô cũng được Niễng cứu kịp thời. Tình ái dần dần đến với đôi trẻ.

Để bảo vệ con gái, ông Hai Tuất gửi con lên thành phố sống với em gái. Tại đây cô tình cờ nhận lại mẹ ruột của mình. Thân thế bí ẩn của Lượm dần dần hé mở. Cô được người mẹ giàu có chữa bệnh mắt, trở thành tiểu thư xinh đẹp. Dù mẹ ruột và cha nuôi tìm mọi cách gán ghép với anh chàng Đức Thịnh nhân hậu, trái tim Lượm vẫn hướng về chàng trai quê nghèo khổ, xấu xí tên Niễng.

Đức Thịnh dành nhiều tình cảm cho Lượm nhưng trái tim cô vẫn hướng về Niễng

Nhưng tình yêu của đôi trẻ gặp phải nhiều sóng gió do tính ích kỉ của mẹ ruột Lượm gây nên. Bà không chỉ nói láo Lượm rằng Niễng đã chết mà còn định hãm hại anh để con gái phải yêu Đức Thịnh…

Phim dài 39 tập, phát sóng lúc 21h, thứ hai đến thứ sáu, từ 1/8 trên VTV9. Mời quý khán giả đón xem!

P.P


Con nuôi hiếu hạnh “chết không nhắm mắt“ vì bị lập biên bản thêm oan?

Di ảnh nạn nhân

Bi kịch từ di vật của người quá cố

Nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông Tưởng bản tính chỉ vì… cái trống hỏng. Nghĩ chiếc trống vốn là vật dụng thân thiết của bố nuôi khi còn sống hay dùng trong các dịp lễ Tết, nên đứa ông Tưởng mang trống sang nhờ người láng giềng sửa lại.

Tuy nhiên, vì không đủ tiền trả công sửa nên ông Tưởng chạy đi vay tiền người quanh xóm. Trong lúc đó, mẹ nuôi ông Tưởng là cụ Kiều Thị Tẻo (76 tuổi), vì không đồng ý để con nuôi mang trống đi sửa bèn chạy sang hàng xóm ôm trống về, còn lớn tiếng quát lác “đã không có tiền lại lắm chuyện”.

Người con nuôi vay được đủ tiền, về tới nơi không thấy trống, lại nghe người hàng xóm nói mẹ mình sang quát lác đòi trống, ngay tức khắc quay về nhà. Hai mẹ con lời qua tiếng lại, nạn nhân nhất quyết mang trống đi sửa, bà mẹ ôm trống bo bo giữ lại, chẳng ai chịu nhường ai.

Trong lúc to tiếng giằng co, bà mẹ bị xô ngã khiến chiếc trống đập vào tay. Bà mẹ chạy ra ngõ “bù lu bu loa”: “Thằng con trai đánh chết tôi”, rồi chạy đi gọi họ hàng để “xử thằng con bất hiếu”.

Khoảng mấy phút sau, anh em con cháu bên đằng ngoại cụ Tẻo đã có mặt, người vác điếu cày, người cầm cán chổi xông đến đánh đứa con nuôi túi bụi.

Bị đến 4 - 5 người tấn công, nạn nhân chẳng thể chống trả, vùng chạy ra cổng nhưng vẫn bị đuổi theo. Nhiều người dân chứng kiến cho biết, dù nạn nhân đã bỏ chạy nhưng vẫn bị truy đuổi tới cùng, đám người chỉ dừng tay khi có rất đông người làng vào can ngăn.

Trong thời kì ông Tưởng bị hành hung, bà mẹ nuôi lên chính quyền địa phương báo việc mình bị con nuôi đánh, đề nghị chính quyền đến lập biên bản “răn đe”.

Không tìm hiểu ngành ngọn câu chuyện, không biết chuyện ông Tưởng vừa bị người nhà cụ Tẻo hành hung, chính quyền tiến hành lập biên bản hành vi đánh mẹ nuôi, yêu cầu ông không được tái phạm.

Cảm thấy bị oan uổng, người con nuôi chạy xuống dưới bếp, cầm con dao định tự vẫn nhưng người thân đã ngừa, chóng vánh giằng con dao ra khỏi tay. Sau vụ trẫm mình bằng dao bất thành, mọi người khuyên ông Tưởng không làm điều dại dột. Thấy ông lặng im bỏ ra ngoài, nghĩ chuyện đã ổn, mọi người kéo nhau lên nhà ngồi.

Khoảng 15 phút sau, người ta thấy ông Tưởng đứng ở sân, trên tay cầm hai chai thuốc sâu, một chai đã hết, chai kia còn non nửa. Chưa kịp hiểu chuyện gì, người thân nghe ông Tưởng hét: “Hôm nay tôi quyết chết ở đây” rồi ngửa cổ uống hết phần thuốc sâu còn lại. Người thân tá hỏa đưa ông đi cấp cứu nhưng vì nhiễm thuốc sâu quá nặng, ông Tưởng mất ngay sau đó.

Đứa con cả đời bị hất hủi, bị người thân mẹ nuôi đánh đập

Theo người dân địa phương, căn do chính dẫn đến cái chết của ông Tưởng là do chịu quá nhiều ấm ức trong khoảng thời kì dài, đỉnh điểm chính là vụ bị người thân mẹ nuôi nạn nhân hành hung, rồi lại bị lập biên bản oan.

Giữa sân này, uất ức bị phân biệt đối, ông Tưởng đã tự tận.

Nạn nhân là con nuôi, vợ chồng cụ Tẻo không có con trai xin về từ khi ông còn là đứa trẻ 4 - 5 tuổi. Từ ngày còn bé, người mẹ vốn đã không ưa đứa con nuôi, thường đối xử phân biệt, nhưng ngày đó chồng bà còn sống, nên mâu thuẫn giữa hai mẹ con chỉ là mấy chuyện vụn vặt.

Từ khi chồng mất, cụ Tẻo ghét đứa con nuôi ra mặt, từ chuyện nhỏ đến chuyện to, bà đều kiếm cớ gây sự khiến mâu thuẫn giữa hai mẹ con ngày càng bít tất tay.

Người con trưởng của nạn nhân cho biết, cách đây khoảng một tháng, người nhà bà ngoại nuôi đã đánh cha mình. Đợt đó, dù bị đánh khá đau nhưng ông Tưởng không báo chính quyền, chỉ âm thầm chịu đựng vì nghĩ “người một nhà nên không muốn vạch áo cho người xem lưng”.

Hôm xảy ra sự việc, rõ ràng người thân cụ Tẻo xông đến đánh nạn nhân “thừa sống thiếu chết”, nhưng chính quyền chỉ tiến hành lập biên bản về hành vi ông Tưởng đánh mẹ nuôi như lời bà Tẻo báo.

Bị đám người nhà đánh đập, thêm người mẹ nuôi “ác miệng” khiến nạn nhân quá căm uất, không nghĩ suy thấu suốt nên mới có hành động dại đột. Một số người cho biết, ông Tưởng chết rồi nhưng bà mẹ nuôi đã không tỏ ý yêu, lại còn rêu rao: “Tự nó chuốc lấy chứ ai bắt nó phải chết”.

Có dấu hiệu tội bức tử?

Ngay khi vụ việc xảy ra, công an xã Võng Xuyên kết hợp công an huyện Phúc Thọ triệu tập, lấy lời khai các đối tượng dự hành hung ông Tưởng nhằm phục vụ công tác điều tra. Các đối tượng đều đã dìm hành hung nạn nhân trước khi ông Tưởng tìm đến cái chết.

Người nhà nạn nhân tỏ ý bức xúc trước hành động hung dữ của nhóm đối tượng, gián tiếp đẩy ông Tưởng đến cái chết. “Bố tôi đến lúc chết vẫn chẳng thể nhắm mắt nhắm mũi, chú tôi có vuốt và giữ mắt đến chục phút nhưng cứ gỡ tay ra, mắt bố tôi lại mở trừng trừng như người còn sống. Người ta nói, vì bố tôi chết oan nên mới như vậy”, người con trai đớn đau.

Nạn nhân có 3 người con trai, con cả đã lập gia đình hiện sống cùng bà nội nuôi, chính là bà Tẻo. Gia cảnh nạn nhân rất khó khăn, người vợ vốn có tiền sử bệnh tim nên đau ốm quanh năm suốt tháng, ông Tưởng là cột trụ chính trong nhà. Ngoài việc đồng ruộng, nạn nhân còn là an ninh viên của thôn nhưng tiền lương không đủ trang trải cuộc sống.

Việc nạn nhân quyết tìm đến cái chết ngay sau khi bị người nhà mẹ nuôi đánh đập khiến rất nhiều người dân địa phương bức xúc.

Theo một số người dân, trước kia người nhà nạn nhân có ý khuyên ông đưa cả gia đình vào miền Nam làm ăn, tránh xung đột giữa hai mẹ con ông. Nhưng nạn nhân cương quyết ở lại, nói: “Bà Tẻo dù sao cũng đã có công dưỡng dục tôi từ tấm bé, cả nhà phải nhớ điều này, ở lại để báo hiếu”.

Theo thạc sĩ Nguyễn Thế Anh (trọng tâm truyền thông luật pháp Việt Nam), các đối tượng đánh đập dằn hắt ông Tưởng đã có dấu hiệu phạm tội bức tử.

Luật sư Bạch Tuyết Hoa (Hà Nội) cho hay, Điều 100 Bộ luật Hình sự quy định tội bức tử như sau: “Người nào đối tàn ác, thẳng băng hà hiếp, bạc đãi hoặc sỉ nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự vẫn, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

TheoXa lộ luật pháp


Về Cự Khê nghe chuyện nội dung một thời điên đảo vì sốt đất!

Đó là xã Cự Khê, Thanh Oai, thuộc Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội). Năm trước vẫn còn nghèo khó với hình ảnh những người nông dân lam lũ quanh năm chân lấm, tay bùn. Thế nhưng thông tin sáp nhập về Hà Nội rồi có dự án đường lớn chạy qua, quy hoạch dự án bất động sản, người dân trong làng bỗng chốc giàu đột biến.

Ngày đó, đi đến đâu người dân trong xã hay quanh khu vực cũng nhắc đến câu chuyện đất cát tăng giá để làm quà. Chuyện nhà ông A, bà H vừa bán mấy trăm m2 đất thu về mấy tỷ, hay có khách đến trả giá cao ngất ngường mà nhà ông L không bán, tiếc quá!

Kể lại với PV, anh Nguyễn Văn Thanh, một người dân xã Cự Khê nhớ lại, khoảng cuối năm 2008, bít tất nguyên cớ cũng bởi câu chuyện từ dự án bất động sản, dự án làm đường đã chiếm phần nhiều đất nông nghiệp của xã, tiền bồi thường đất đã khiến nông dân nghèo hóa thành… tỷ phú. Nhưng đời sống của những nông dân hậu đền bù đất có thật sự sung sướng?

Xã Cự Khê những năm trước rộn rịch ô tô, xe máy của khách đến xem đất, thì nay là cảnh làng quê yên bình

Cả xóm chỉ vỏn vẹn khoảng 300 hộ dân, nhưng số tiền đền bù đất lên tới hơn 800 tỷ, hộ được đền bù ít thì 500 – 700 triệu, hộ nhiều tới vài tỷ đồng. Chẳng những vậy, đất thổ cư trong xã có tăng giá nhất là từ khi nghe tin về Hà Nội, có dự án đường lớn chạy qua…

Từ đó, đất cát thổ cư trong làng người bán, kẻ mua lại tăng ví diều gặp gió, từ trước khi sáp nhập giá 1m2 đất ở trong làng chỉ khoảng 10 triệu đồng/m2, nhưng khi có thông báo sáp nhập Hà Nội rồi dự án đường lớn chạy qua, người ta cứ kháo nhau, đồn thổi, giá đất tăng chóng mặt.

Đầu năm 2008, giá đất trong làng đã tăng lên tới 20 triệu đồng/m2, rồi khi chính thức về Hà Nội, có dự án quy hoạch ven làng, giá đất được đẩy lên 40 – 50 triệu/m2, thậm chí đỉnh điểm lên đến 70 triệu đồng/m2. “Mặc dù tăng như vậy, hễ bất cứ ai trong làng rao bán có khách nơi khác ôm cả tải tiền đến mua một lúc hàng mấy trăm m2.” – Anh Thanh nhớ lại.

Còn ông Phạm Văn Trung, người dân khác trong làng cho biết: "Ngay sau khi sáp nhập, ông em nhà tôi đã bán ngay 200m2 đất với giá 30 triệu đồng/m2 cho một tay đầu cơ ở Hà Nội. Cầm tới 6 tỷ đồng trong tay mà ngỡ mình nằm mê, cả đời lam lũ làm ăn chắc chả được một phần của số tiền ấy.

Nhưng chỉ sau đó chừng hơn 1 năm, tay này đã bán mảnh đất đó đi cho người khác với giá 40 triệu đồng/m2, ông em nhà tôi nhìn mà tiếc, không ngờ đất lên nhanh vậy, nhưng lỡ đã bán rồi thì thôi. Sau khi vừa bán xong, cũng là cực điểm cơn sốt đất đầu năm 2010, nghe nói có người trả tới 45 triệu nhưng chủ đất này không bán…

Tưởng ông em tôi bán hớ! Thế nhưng, đất cát chả biết thế nào mà nói. Qua tay vài người mua đi bán lại đến giờ mảnh đất đó giảm giá thảm hại, nay khoảng trên 10 triệu mà chẳng có khách hỏi thăm. Chủ mua sau rốt này mới là người khuynh gia bại sản…”.

PV gặp được bà Lương, người dân trong xã. Kể lại với chúng tôi, bà Lương cho biết, bây chừ bà vẫn kẹt một mảnh đất mua thời điểm giá cao, nhưng tưởng giá còn lên được nữa bà để đó, giờ bong bóng nhà đất vỡ, bà muốn bán mà không được.

“Thời điểm này năm 2009, mảnh đất 100m2 này của tôi đã được khách trả 50 triệu đồng/m2 mà tôi lừng khừng không bán vì cứ nghĩ càng để đất càng có giá. Hơn nữa, lúc đó cũng chưa có việc nên mới không bán, ngờ đâu giờ muốn bán mà khó quá, người mua chạy đâu hết cả” – Bà Lương thở than.

Sau khi sáp nhập về Hà Nội, tốc độ đô thị hóa ở Cự Khê diễn ra nhanh tới chóng mặt

Trước đây, đa phần người dân xã Cự Khê đều làm nghề nông, một số nhà duy trì nghề gia truyền là làm miến và làm tương. Làm việc đầu tắt mặt tối quanh năm cũng chỉ đủ ăn. Giờ đây, dung mạo làng quê đã hoàn toàn đổi thay.

Những ngôi nhà cấp 4 xập xệ hay những thửa ruộng mạnh tay cò bay dần biến mất, thay vào đó là nhiều ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát, tất là người dân có tiền bán đất, tiền đền bù đất đầu tư. Làng quê đường đất bụi mịt mù giờ trở nên thị thành hóa rõ rệt. Có tiền người dân đua nhau xây nhà, mua xe, thậm chí đầu tư vào bất động sản theo phong trào. Cứ nhà ai có thông báo bán đất, người trong làng hỏi cũng có, người Hà Nội về hỏi cũng nhiều.

Sau nhiều năm sáp nhập về Hà Nội, câu chuyện một thời sốt đất, hàng ngày làng quê nhộn nhịp người ra kẻ vào mua bán đất cát, cảnh cò dẫn đi ăn giá nhộn nhịp giờ đây thay vào đó là cảnh làng quê thanh bình, những mảnh ruộng tưởng chừng bỏ hoang hóa vì người Cự Khê không “thèm” cấy lúa giờ lại xanh tốt.

Đến làng khi hỏi câu chuyện sốt đất ở đây ai ai cũng nắm rõ, và đó là chuyện những năm về trước, giờ người Cự Khê thỉnh thoảng kể lại cho khách đến chơi như một câu chuyện làm quà!

Nguyễn Hiếu


Chia sẻ Hàng xóm giải cứu bé gái bị dỗ dành bằng chùm nhãn

Hại đời cháu bé 8 tuổi

Kể lại cái buổi sáng kinh hồn khi phát hiện sự việc, anh Phạm Văn Lăng cho biết: “Hôm ấy (22/7), tôi đi ngang qua nhà Tuấn, thấy con chó vứt ở sân, vốn là bạn nhậu với Tuấn nên tôi vào nhà gọi, thấy cửa mở, gọi mãi mà không ai giải đáp, sợ Tuấn bị làm sao nên tôi xuống dưới bếp tìm, thấy có nồi nước đang nấu trên bếp, mà không thấy có người.

Khi lên tầng hai, thấy cửa khóa trái, gọi không thấy giải đáp, tôi nhòm qua khe cửa thì không nhìn rõ ai, chỉ thấy đôi bàn chân nhỏ trên giường, hướng ra phía cửa, tưởng người nhà ông Tuấn nằm ngủ nên tôi lại đi xuống”.

Ngôi nhà của Trần Văn Tuấn, nơi xảy ra sự việc.

Định bụng ra về, bỗng anh Lăng lại thấy có gì đó bất ổn, vì con cái Tuấn đi làm xa hết, nhà chỉ có vợ chồng già, vì sao lại có đôi chân nhỏ như chân con trẻ trên giường, nên anh quay lại.

Anh Lăng leo lên tầng hai một lần nữa, vừa lên đến nơi anh nghe thấy tiếng khóc bên trong, nhìn kĩ, anh thấy Tuấn đang trần trụi đè lên người một bé gái. Anh Lăng giật mình, vội chạy xuống nhà tìm thêm người đến giải cứu cháu bé.

Vừa may lúc đó thấy bà Phạm Thị Thụy, và anh Phạm Văn Tưng hàng xóm kề nhà ông Tuấn đang làm vườn, anh Lăng liền chạy ra sau nhà hô hoán.

Cả ba người cùng chạy lên tầng 2, qua khe cửa, mọi người chứng kiến cảnh tượng đồi bại. Bà Thụy liền chạy xuống nhà gọi người dân, còn anh Lăng và anh Tưng đứng chặn trước cửa để bắt Tuấn.

Một lát sau, anh Phạm Văn Lễ nhà gần đó nghe tiếng bà Thụy liền chạy đến, cùng lúc này, cánh cửa tầng 2 mở toang, cháu V. Không mặc xống áo từ bên trong lao ra hoảng loạn, gào khóc, còn bên trong, ông Tuấn vẫn đang loay hoay cố mặc chiếc quần cụt không xong.

“Tôi cứ ngỡ là ác mộng, không dám tin vào mắt mình, nào nào ngờ ông ta làm cái việc tày đình ấy”, bà Thụy nhớ lại.

Bà Thụy ôm cháu V. Vào lòng, mặc áo xống cho cháu, rồi đưa cháu về nhà. Những người còn lại xông vào bắt, trói Tuấn và gọi điện bàn giao cho công an xã giải quyết.

Cháu bé hoảng loạn

Sau khi sự việc xảy ra, cháu V. Từ cô bé hay nói cười trở thành lầm lì, chẳng nói chẳng rằng, lúc nào cũng đẫn đờ, ở lì trong buồng không chịu chuyện trò với ai.

Những ngày qua, vợ chồng anh Phạm Văn Khoa, Đỗ Thị Ngát, bác mẹ cháu V. Chưa đêm nào tròn giấc. Hận kẻ bạc ác nhẫn tâm cưỡng hiếp con gái bao nhiêu, anh chị lại thương con, lo lắng cho con bấy nhiêu. “Khắp người con bé bầm tím, nhất là cánh tay, phần phụ sưng lên và chảy máu, ý thức hoảng loạn, đêm nào con bé cũng giật thột khóc thét lên, có hôm gặp ác mộng n la hét”, mẹ cháu V. Đau đớn nói.

Cháu V. Trở thành lầm li và ý thức bị hoảng loạn.

Điều mà gia đình anh Khoa lo âu nhất là thời gian sắp tới khi cháu đi học, bạn bè biết chuyện lại đem ra trêu đùa làm cháu tự ti mặc cảm, chính anh chị cũng không lường trước được rồi cháu sẽ sống như thế nào với viết thương cả thân xác lẫn tinh thần khi cháu chỉ mới tròn 8 tuổi.

Liên tưởng đến vụ việc, Đại tá Trần Văn Nhận – Trưởng Công an huyện Giao Thủy (Nam Định) cho biết, cơ quan CSĐT CAH Giao Thủy đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội dâm ô con trẻ đối với ông Trần Văn Tuấn (48 tuổi, trú tại thôn Trung Đường, xã Bạch Long). Tuy nhiên, theo Đại tá Nhận, do ông Tuấn có bộc lộ thần kinh nên cơ quan công an đang cho ông này tại ngoại để tiếp điều tra.

Đoạn Lãng

Theo Infonet


Võ Bá Cường và hồi ký tốt Thời tôi sống

Thời tôi sốnglà bức toàn cảnh cuộc sống nhà văn Võ Bá Cường trong mấy chục năm qua, trên đại thể được chia thành ba thời kỳ đậm nét. Thời kỳ đầu, vào tuổi thanh niên, trong vai một anh giáo trẻ, ra huyện đảo Vân Đồn lập nghiệp. Thời kỳ tiếp là gia nhập làng văn, sống và làm việc tại cơ quan văn nghệ địa phương. Và sau rốt là dấn thân vào nghiệp văn gian khó với ý thức dám đấu tranh với khổ ải, bênh vực lẽ phải, bảo vệ chân lý. ĐọcThời tôi sốngcó cái thú đầu tiên là được thưởng thức sự tinh tế sống động của văn chương của một cây bút có duyên kể chuyện, giàu cảm xúc.

Đọc những đoạn ký ức về những ngày đầu tiên anh giáo trẻ Võ Bá Cường ra dạy học ở phố thị Cái Rồng thủ phủ Vân Đồn huyện đảo sở hữu 600 hòn đảo lớn nhỏ mà cứ thấy lưu luyến. Những kỷ niệm đầu đời ở một lãnh hải trời thật mênh mang. Đôi ba ánh mắt con gái và hương thổ mộc vườn cây còn bịn rịn cùng cái tình quê chân mộc thuở trời còn yên hàn. Niềm vui được ăn lương anh giáo quốc lập và cái háo hức vì từ lúc bén duyên chữ nghĩa, "ma đưa lối quỷ dẫn đường" chuyển sang nghề bút mực để từ đây sống với các cung bậc cay chua mặn nhạt của thế cuộc.

Năm 1957, 17 tuổi, anh giáo Cường ra đảo. Năm 1960 được điều về làm cán bộ văn hóa huyện. Năm 1964, đến năm 1971, với chức trách trưởng phòng văn hóa huyện, tính ra sống ở nơi đầu sóng ngọn gió này gần mười lăm năm; một vùng địa lý nhân văn vừa tươi đẹp vừa khắc nghiệt, với bao buồn vui trong thăng trầm biến động, cùng đồng chí đồng bào đối mặt với gian truân, khốn cùng, góp sức cho cuộc sống, cùng là để hình thành nhân cách một con người, một nhà văn, chất chồng sao kỷ niệm nào đâu có thể dễ nhãng quên! chẳng thể quên, ai cũng vậy thôi! Nhưng kể lại thành những dòng hồi ức như của Võ Bá Cường trong cuốn sách này thì không phải ai cũng có thể. Nhà văn là kẻ có chữ, đương nhiên rồi. Đã thế anh lại có một trí nhớ đáng được gọi là Cường ký. Anh nhớ kỹ lắm. Anh viết: Nước vỗ sàn sạt vào khe đá. Chèo khuabùm bũmva vào nhau. Thuyền nối đuôi thuyền chen nhauđen thui như trâu lùa vào bãi. Ảnh tượng, âm thanh găm chặt vào trí não anh. Anh nhớ chi ly từng chi tiết vụn vặt về người về cảnh. Đọc những trang văn ghi lại các sự việc, cảnh tượng cuộc sống cách đây cả nửa thế kỷ mà thấy hiển hiện trước mắt mình mồn một mọi cảnh sắc, con người, cử chỉ, ngôn ngữ, thấy được cả hình cả ảnh, nhận ra được cái không khí, hương vị, màu sắc và niềm rung động rưng rưng, ở đằng sau từng con chữ, trang sách.

Với Võ Bá Cường, những trang ký ức về những ngày sống và làm việc trên quê hương yên bình cùng các bè bạn văn nghệ sĩ đồng hương là những hình ảnh khôn xiết đẹp. Một thời nghèo túng, nhưng xót thương đùm bọc nhau và gan góc. Cũng mang một ý nghĩa tương tự, đôi nét về một Làng Chàng, một Phố Đống... Về một vùng quê hương được ghi lại trong hồi ký của anh những ngày nọ là những trang viết quý báu để bổ sung vào dòng văn xuôi lịch sử nghề văn. Làng văn không thiếu chuyện vui buồn, thậm chí, cả những thói xấu, bi kịch đẫm nước mắt, tuy vậy trên hết vẫn là những vẻ đẹp cao quý về tư cách và nhân tài của những con người sống bằng sự sáng tạo giá trị ý thức để trả nghĩa cho cuộc đời. Sống cùng bè bạn như chim bay cùng bầy, cạnh Võ Bá Cường, trong hồi ký này là những khuân mặt văn nghệ sĩ được anh nhắc đến, người thoáng qua, người dừng lại kỹ lưỡng như Bút Ngữ, Đỗ Vĩnh Bảo, Đức Hậu... Tuốt luốt đều được viết bằng những lời trân trọng mến yêu và thật tình.

Với riêng thể loại hồi ký và cuốn hồi ký này! chân thực, chân thực và trung thực! Là vày anh hiểu: cái căn bệnh thường mắc của người viết hồi ký, là tác giả của nó không giấu nổi ý thích ngắm vuốt ve mình, tức là thêu dệt cho mình. Chưa kể nhiều khi lại có tình trạng như là đổ tội, tranh công. Thế đấy, hai chiếc xe tăng cùng một đại đội, trong hai hồi ký đều nhận xe mình trước nhất xông vào căn cứ địch ở thị xã B tháng 4-1975. Buồn thay trong chiến tranh, giữa bom đạn cái chết chia đều cho mọi người, đâu có chú ý đến công tích trong lúc viết hồi ký, chưa kể ngoài thiên kiến cá nhân chủ nghĩa của chủ thể. Hồi ký thường chịu tác động của cơ chế hồi ức, tức quy luật của sự quên lãng, khiến các sự kiện dù không cố tình vẫn bị ngó một cách lệch lạc, méo mó. Nghĩa là thông tin ở trang viết đó rất có thể không đáng tin tưởng.# Vì thiếu hụt sở cứ và mang tính phiến diện. Hồi ký dẫu thế nào thì vẫn là câu chuyện được tái hiện trong tầm nhìn cá nhân, mang dấu ấn chủ quan của người viết.

Hiểu rõ những hạn chế đó của thể loại, Võ Bá Cường đã nỗ lực vượt thoát. Anh giữ vững ý thức khách quan, chân thực khi nom trình bày sự việc. Anh không để những bi lụy cá nhân làm sai lạc cách nhìn đời. Sau khi về hưu, những vất vả bươn chải kiếm sống, từ việc khâu bao đay, nhặt đậu tương, làm hàng xáo, buôn lạc, buôn sắt, nơi thì lừa đảo nơi thì thương xót, cùng những chuyện buồn cá nhân mang dấu tích thời cục... Được anh kể lại bằng một giọng văn trầm tĩnh và pha chút hí hước vui vẻ.

Không tránh né hiện thực dù nó đau lòng xót xa đến mấy là một khía cạnh nữa về lòng chân thực của nhà văn. Giai đoạn nào cũng vậy. Cái tình cảnh bi đát tưởng không lối thoát của họa sĩ Trần Dậu, bạn anh ở Hội Văn nghệ thái hoà là một ví dụ. Nhưng đời nào cái con người tài ba lãng nhân, đượm chút phong tình ấy bị dồn đến chân tường chỉ là để chứng minh cho quy luật cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu là chân lý! Và như vậy thì chẳng thể để Mực đọng trong nghiên sầu... Gì thì Võ Bá Cường cũng nhớ anh là một nhà văn. Anh không thể né tránh những câu hỏi đặt ra trước anh. Và thế là cái nghề bút mực văn học với cái chức vụ thiêng liêng là lên tiếng đã buộc anh dẫu sống trong đói nghèo túng vẫn đối diện với trang giấy trắng.

Biết mấy là gian truân con đường mà Võ Bá Cường đã tình nguyện dấn thân. Vì theo anh, nếu không nói rõ sự thật thì thế hệ mai sau phải chịu nhận những hậu quả khôn lường. Biết là đường dài lắm hóc búa, lặn lội lên tận Nghĩa trang Trường Sơn bái lạy hồn 10.324 liệt sĩ phù hộ cho chân cứng đá mềm để đi đến cùng công việc. Rồi từ đó vào nam ra bắc. Dòng dã hết năm này sang năm khác. Gặp gỡ không sao nhân chứng lịch sử. Mầy mò sưu tầm, ghi chép cả ngàn trang viết tay. Bị làm rầy rà. Bị ngăn cản. Bị dọa dẫm. Bị cười chê. Nếm trải đủ mùi cay chua thế cuộc. Mệt nhọc. Cơm bụi. Ngủ nhờ. Xe ôm. Lần mò hang cùng ngõ hẻm. Cùng quẫn nhiều khi không xu dính túi. Không sao hết! Vẫn say sưa công việc bàn thời thế, luận anh hùng. Với ngòi bút và trang giấy trong tay, nhà văn quyết chống chọi cho một mai sau tươi sáng hơn.

* Thời tôi sống là cái không gian thời gian anh đã sang trọng. Trong đó có cái tôi đời sống cá thể của riêng anh. Dĩ nhiên có cả cái Thời đoạn bao bọc anh và anh vẫy vùng trong đó. Anh đã nhận ra chân dung nó bằng cảm quan và tả nó bằng vốn chữ nghĩa của anh. Anh hy vọng được coi mình là một con người công bằng, chính trực. Và thêm nữa, anh nghĩ, anh sẽ không phải ân hận, ngượng ngùng vì những ngày sống trong phối cảnh đó của mình.

* Hồi ký, một bộ phận cấu thành văn xuôi nghệ thuật. Một tư liệu lịch sử đương thời, quyến rũ người đọc bằng sự mô tả sinh động những ấn tượng, cảm tưởng trực tiếp của cá nhân. Vâng, của cá nhân! Nhưng nếu không có những cố gắng của mỗi cá nhân chủ nghĩa thì sao có sự tiến lên của cộng đồng. Không có cá nhân chủ nghĩa thì viết hồi ký làm gì!

MA VĂN KHÁNG


Thư tòa soạn số cập nhật 14 (tháng 7/2013): bí hiểm những ngôi sao

Tôi biết một diễn viên nức tiếng đến với nghề diễn chỉ vì… mê gái. Một gánh hát qua làng, ông bị bỏ bùa mê vì một cô đào hát. Ông bỏ nhà theo gánh hát, xin làm chân nấu cơm, gánh nước và khuôn vác phông màn chỉ với một mục đích được ở gần người ông thầm yêu trộm nhớ. Một ngày đẹp trời anh kép phụ bị ngã gẫy chân, gánh hát thiếu người, ông được ông chủ gọi lên giao cho vai diễn rình mò một đôi vợ chồng trẻ đêm tân hôn. Ông nhập tâm, diễn quá hay, như vẻ người mất hồn… Khán giả khoái trí vỗ tay rầm rầm. Từ đó, ông trở thành diễn viên. Sau này cô đào mà ông đeo đuổi cũng mê ông nhưng lúc đó con mắt ông đã hướng sang những đám mây hồng khác.

Tôi biết một đạo diễn gạo cội nhưng thuở bước chân vào nghề cũng bi thảm lắm. Ông từng học quay phim nhưng chẳng quay được phim nào, ông từng học họa sĩ nhưng chưa ai thấy bức tranh nào của ông. Có lúc tuyệt vọng ông đã định xin đi xuất khẩu lao động. Đúng lúc cuộc đời ông đã nằm dưới chân tường thì có gã giầu xổi nổi hứng thích làm phim. Hắn sẵn sàng giao tiền cho ông với một điều kiện: Cô bồ nhí của hắn được xuất hiện trên phim. Ông liều mạng đồng ý, vậy mà thành. Cô bồ nhí trong vai kẻ lăng loàn ghen ngược, nói theo ngôn ngữ báo chí “diễn mà như không diễn” được người xem thích thú. Từ đó, giao kèo làm phim đến với ông ầm ầm.

Tôi biết một ca sĩ thuở hàn vi cũng làm trăm nghề hèn mọn. Từ khuân vác ở bến xe đến rửa chén đĩa nhà hàng, ông chẳng bao giờ từ nan, miễn sao có cái bỏ vào bụng cuối ngày. Nhưng ngay lúc “trần ai”, “người anh hùng tương lai” cũng luôn có triết lý sống khác người. Nếu ai tỏ ra bi cảm cảnh ngộ của ông thì ông chỉ cười và nói: “Nghèo thì lâu, giầu thì mấy”. Vậy mà đúng, giờ ông nức tiếng, giầu sang phú quý. Nhiều phóng viên rình rập để xin ông một bài phỏng vấn đều kêu giời vì khó. Đôi khi ông buột miệng những câu ất ơ, cũng có hàng chục tờ báo đưa nguyên văn.

Được biết nhiều ngôi sao từ khi còn lận đận, với người khác không biết thế nào, riêng tôi hiện nay mỗi khi gặp các bạn trẻ rén đến xin việc, hay một đôi bạn sinh viên đang “trà chanh chém gió”, tôi đều tự nhủ lòng mình: “Đừng, đừng coi thường họ, biết đâu trong số đó, chỉ một đôi năm nữa sẽ xuất hiện những ngôi sao!”.

Tôn Văn


Nhà nhiếp ảnh Lê Bích: Đi tìm “vật giữ được hồn làng”

Thời kì vẫn cứ trôi đi nhưng giếng làng vẫn trong đến mát lòng

Rong ruổi đi tìm giếng làng

Tuy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng tác giả Lê Bích lại dành nhiều công sức cho một đề tài đậm chất nông thôn-giếng làng. Động cơ lớn nhất xúc tiến anh lên đường là bởi niềm ham thích và yêu thích đề tài về làng quê Bắc bộ và cũng bởi một câu nói “Nếu bạn đi đến cùng tận ngôi làng của mình, bạn sẽ thấy nhân loại ở đó”. Hay đúng hơn thì khi soi bóng mình dưới làn nước mát lành của giếng làng, con người hiện tại còn thấy cả bóng ông cha mình ở đó với bề dày lịch sử, với kỹ thuật xây giếng điêu luyện và cả những lễ nghi, phong tục tập quán của từng ngôi làng Bắc bộ. Hiểu về quá cố nên những bức ảnh giếng làng của Lê Bích không nông cạn trong việc ghi lại hình ảnh của chiếc giếng mà còn chuyển tải đến người xem thông điệp của dĩ vãng, niềm kiêu hãnh của mỗi người con làng quê về những mỹ tục tốt đẹp của quê hương, xứ sở.

Quả tình, khi bắt tay vào thực hiện đề tài này với những bức ảnh đầu tiên về những giếng cổ ở Hoàng Thành Thăng Long, Lê Bích đã thấy rất rõ ý nghĩa của mỗi chiếc giếng trong tâm thức và tâm linh người Việt. Không phải chiếc giếng nào được xây cũng dùng để lấy nước ăn mà có một số giếng được dùng để phục vụ phong thủy, có miếu thờ trong những dịp sinh hoạt tín ngưỡng. Một lần được ghé thăm làng Diềm (Bắc Ninh), Lê Bích đã bất thần trước vẻ đẹp nghìn năm tuổi của chiếc giếng ở ngôi làng quan họ cổ này. Sau bao biến thiên của thời kì, chiếc giếng vẫn nghe đâu không thay đổi. Nước giếng vẫn trong đến mát dạ và người dân làng Diềm đã tôn thờ chiếc giếng đến độ vẫn chân trần đi xuống 11 bậc gạch, 3 bậc đá, 1 bậc lim và dừng lại bên miệng giếng hình bán nguyệt để múc từng gáo nước ngọt mà uống ngon. Khi nhà trai đi cầu thân, người làng Diềm lấy nước giếng để vo gạo, thổi xôi làm lễ sang nhà gái. Nước giếng còn dùng để làm lễ mộc dục (tắm tượng) ở chùa. Nước giếng làng Diềm mang đến may mắn và sự thịnh vượng cho người dân nơi đây.


Vẻ đẹp ngàn năm tuổi của giếng Ngọc làng Diềm


Tiếc vì sự vô tình của con người

Với ý nghĩa lớn lao như vậy, giếng làng Diềm thực thụ là bài toán khó cho nhà nhiếp ảnh này trước khi đưa ra quyết định bấm máy. Nếu chỉ thuần tuý chụp để ghi lại khung cảnh, có nhẽ anh đã không mất nhiều thời gian để đi đến gặp các cụ cao niên trong làng, tìm hiểu về lịch sử của chiếc giếng, những câu chuyện gắn liền với đời sống dân cư. Chỉ đến khi sáng tỏ mọi vấn đề, anh mới bắt tay vào chụp mà chụp rất nhanh như bắt được mạch nguồn từ quá cố. Phải nói rằng, làng nào ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng cũng đều có giếng làng mà đã là giếng làng thì cái nào cũng đẹp, cũng được xây dựng cầu kỳ và đẹp về mặt thẩm mỹ. Ngay trong lòng phố cổ Hà Nội, Lê Bích cũng đã ghi lại được những chiếc giếng cổ rất đẹp và tồn tại song hành cùng thời gian. Nhưng tiếc rằng, do dân cư đông đúc, không gian cho chiếc giếng đã bị xâm lấn đến trầm trọng và làm mất đi phong cảnh cho giếng làng giữa phố.

Đi đến các làng quê, Lê Bích đã được tận mắt nhìn thấy sự tàn phá của con người và thời kì đối với vật mang hồn làng. Bằng công nghệ xây mới, người ta không ngần ngại đập bỏ những thành giếng rêu phong có trang hoàng hoa văn cầu kỳ để thành những mảng tường vô hồn, sắc cạnh nhưng bề thế. Nhìn những chiếc giếng nửa cổ nửa mới, anh không khỏi chán chường và tiếc cho vong hồn của làng đã bị sự vô tình của con người đánh mất. Nhưng cũng chính điều này lại thôi thúc anh khởi hành, đi đến những ngôi làng hẻo lánh, hoang sơ để kịp ghi lại những chiếc giếng làng trước khi biến mất bởi chính bàn tay con người. Lê Bích thực hiện đề tài giếng làng với hoài vọng sẽ giới thiệu đến đông đảo người xem vẻ đẹp sơ khai của những chiếc giếng cổ đang nằm tản mạn tại các làng quê vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Sau 3 năm đeo đuổi đề tài, Lê Bích tiếc nhất cho tới thời điểm ngày nay, anh chưa sở hữu tấm ảnh nào về các lễ thức can hệ đến giếng làng như lễ thức người mở cõi, lễ nghi thau giếng… Bởi giếng làng là vật thiêng trong đời sống cư dân Việt, loạt ảnh của anh cho dù có lên tới hàng nghìn bức nhưng nếu chưa có các tác phẩm ghi lại phần lễ về giếng làng thì coi như đã thiếu đi một nửa. Hơn thế, với sức trẻ và lòng tâm huyết, Lê Bích sẽ đấu rong ruổi đến các làng quê để đeo đuổi đến cùng một đề tài giàu ý nghĩa như giếng làng.

Phạm Thu Hương


Những tập tục kỳ lạ - Kỳ 4: chuyện trò bằng “mật ngữ”

Đi tìm “mật ngữ”

Có thể bạn đã đi đến những vùng đất bóng gió, thâm u nhất của thế giới, có thể bạn nói được nhiều ngoại ngữ như “cháo chảy” nhưng tôi tin bạn cũng sẽ phải “đực mặt”, ngẩn tò te khi nghe dân làng Phú Hải (xã Hải Ba, H.Hải Lăng)... Trò chuyện.

Với sự tò mò cực độ, hành trình đi tìm ngôn ngữ lạ của tôi cũng lạ không kém. Tôi chẳng thể trách sự “không sâu sát” của chính quyền xã Hải Ba khi cán bộ của họ lắc đầu trước vài câu hỏi về “mật ngữ” làng Phú Hải. Loay hoay trong làng gần cả tiếng đồng hồ mà không thể “cạy miệng” ai trò chuyện mật ngữ, toan bỏ cuộc thì bỗng có một ông lão như từ trên trời rơi xuống cất tiếng gọi: “Chú nhà báo, có tìm nữa cũng không ai nói cho đâu, vào đây ông bày cho”.


Theo ông Trần Vụ, mật ngữ làng Hải Phú có mối can hệ khắn khít với chữ Hán tượng hình - Ảnh: Nguyễn Phúc

Nhấp ngụm trà đặc quánh, ông lão có tên Trần Vụ (80 tuổi) cười khà: “Dân làng không ích kỷ hay làm khó chú đâu nhưng đứa ở đây luôn có tính thận trọng, vì họ đâu biết chú là ai, lo chú phát tán mật ngữ bừa bãi ra bên ngoài. Phần nữa, có nhiều người nói được, nghe được nhưng để giảng giải cặn kẽ thì họ chịu”.

Tôi gấp phân bua, những người dân ở Phú Hải đa số là nông dân chân chất vậy thì họ tạo ra và cần cái thứ tiếng nói bí ẩn ấy để làm gì?

Để trả lời câu hỏi, ông Vụ đưa tôi về một dĩ vãng xa xưa, xưa đến mức người kể cũng chả biết cách hiện tại mấy trăm năm nữa. “Dạo đó, ở trong làng có một ông thầy pháp rất cao tay ấn, danh nổi như cồn. Khi ông về với đất, đám đệ tử của ông kế nghiệp cũng không tệ. Cái nghiệp đó kéo dài đến tận hiện thời, bởi trong làng giờ vẫn còn nhiều người “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Ngôn ngữ bí ẩn của làng Phú Hải một phần nào đó từ cái nghề này mà ra”, ông Vụ giảng giải. Bản thân ông Vụ cũng là một thầy cúng có tăm tiếng trong vùng. Chắc cũng vì lý do này mà nhiều người kháo nhau rằng mật ngữ ở Phú Hải là ngôn ngữ của... Người cõi âm.

Từ mục đích ban sơ là để giấu bí mật nghề nghiệp, mật ngữ làng Phú Hải bỗng chốc phổ biến thành ngôn ngữ giao dịch của mỗi gia đình và cả cộng đồng. Về sau, trong chiến tranh, mật ngữ được khai hoang triệt để. Với mật ngữ, dân làng Phú Hải có thể nói chuyện choang choang kể cả khi trong nhà có khách. Còn khi giặc đến nhà, họ vẫn bàn luận, bàn mưu tính kế như không. “Chúng tôi nói tiếng này, đố thằng giặc nào nghe được. Vậy nên hồi đó, một số cán bộ của ta đã nhờ tôi dạy cho mẹo nói này để giao du, giữ bí hiểm”, ông Vụ móm mém chép miệng.

Dưới đây là một đoạn đối đáp đơn giản của ông Vụ với con trai là anh Trần Phú Quyền Quý (53 tuổi) bằng mật ngữ:

- Khẩu náp chưa? (Ăn cơm chưa?)

- Chưa khẩu. (Chưa ăn)

- Khẩu náp khẩu thất chi? (Ăn cơm với chi?)

- Có duộc, chấm chin, hành man. (Có thịt, cá, canh)

- Tỏi mại ông cây nghe. (Đi mua thêm chai rượu nghe).

Hàn ôn một hồi lâu, ông Vụ mới chịu “phi lộ” cho tôi cái mẹo mật ngữ của làng. Ông bảo, cái cốt của mật ngữ phụ thuộc vào chữ Hán và họ dùng cách trố chữ rất khéo léo. Thí dụ, “hành” nghĩa là “đi” nhưng người Phú Hải phát âm là “tỏi” (mối liên tưởng ở đây là do cây tỏi cùng họ với cây hành). Chữ “khẩu” nghĩa là “miệng” nhưng khi người Phú Hải nói “khẩu” tức thị “ăn” (ở đây diễn giải là nếu không có miệng thì làm sao mà ăn).

Có khi họ lại vận vào hình trạng của ký tự chữ Hán vốn là chữ tượng hình để diễn dịch rồi tiếp tục biến tấu qua hệ thống từ địa phương. Tỉ dụ như chữ “chủ” (gia chủ, chủ nhà) theo cách viết của chữ Hán thì có 1 dấu phẩy ở trên đầu, từ đây dân Phú Hải nói “chấm óc” (óc là đầu) thì tức thị chủ nhà. Hao hao, chữ “ngư” (cá) trong ký tự chữ Hán phía dưới có mấy dấu phẩy thì dân Phú Hải gọi “chấm chin” (chin là chân) thì nghĩa là con cá...

Nhưng phần lớn từ ngữ trong bộ mật ngữ của làng Phú Hải là không lý giải được hoặc có lý giải nghe cũng không mấy xuôi tai. Theo ông Vụ thì các bậc ông cha ngày trước nghĩ ra được một số chữ có logic, một số không nghĩ ra được thì họ quy ước theo kiểu cứ phát âm như vậy tức thị cái đó, lâu rồi thành quen. Tỉ dụ như “mại” là mua, “ông cây” là rượu, “thổi” là nước, “thượng sơ nghéo” là con gái...

Giữ giàng tiếng làng

Ông Vụ có 9 người con và ai cũng biết mật ngữ, mấy đứa cháu bé tí của ông cũng biết lõm bõm. “Trong làng ni từ già đến trẻ đều biết hết. Người về làm dâu làm rể làng này chịu khó tí cũng biết. Nhưng đứa không chịu khó để ý thì cũng như người câm điếc”, ông Vụ chắc nịch. Vừa lúc đứa cháu ngoại về, ông Vụ ngay thức thì biểu diễn cho khách xem. Ông nói: “Tèo, tương thổi qua cho vưu” thì tức thời thằng nhóc bưng nước qua mời ông Vụ. Ông Vụ cười khà bảo: “Đó, chú thấy chưa”.

Từ đời ông dạy cho đời cha, từ đời cha lại truyền cho đời cháu nhưng để giỏi mật ngữ người học cần phải am hiểu chữ Hán. Theo ông Vụ thì cả làng hiện chỉ có các ông Tiểng, ông Sắt, ông Tranh và ông là có khả năng diễn giải ngữ nghĩa của mật ngữ nhưng hầu hết đã bước qua tuổi 80. “Lứa trẻ đời sau cốt tử là học vẹt, học thục. Nói đó biết đó nhưng hỏi ngược lại vì sao lại thế thì chịu”, ông Vụ nói.

Dù vậy khi tôi giãi bày sự lo âu “liệu mật ngữ sau này có thất truyền?”, ông Vụ nói ngay: “Không, không bao giờ”. “Ngôn ngữ của làng tôi vẫn được mọi người dùng trong giao tiếp hằng ngày. Hơn nữa nghề thầy cúng của làng vẫn còn vượng. Dù chẳng có đua nhưng ai cũng tự biết mà học nếu không sẽ trở nên người thừa trong làng”, ông Vụ lý giải.

Nguyễn Phúc


Sự thật ít biết đằng sau nụ cười hay của danh hài Hoài Linh

Nổi danh với những vai diễn hài hước, với những câu bông đùa khiến khán giả bật cười sảng khoái, song, Hoài Linh lại có những tâm can khôn cùng nghiêm chỉnh khiến người nghe phải chùng lòng.

Lời chia sẻ đắng lòng của Hoài Linh về tâm sự của riêng anh được đăng tại bài viết “Hoài Linh: Tôi không cô đơn nhưng đầy cô độc” của báo Gia đình& tầng lớp hồi cuối tháng 8/2009 khiến không ít khán giả nao lòng:“Tôi là một người không cô đơn nhưng đầy cô độc. Xung quanh có khi rất nhiều người, nhưng lại chẳng có ai để tâm tình, gửi gắm được những nỗi lòng của mình.”

Tháng 5/2011, Hoài Linh tiếp chuyện san sớt chuyện đời, chuyện nghề với bạn đọc trên báo:“Đã là diễn viên thì diễn bi hay hài đều bạc. Cười đó rồi khóc đó. Tâm lý không ổn định, xúc cảm cứ cập kênh. Người diễn viên hài trải lòng với khán giả bằng tiếng cười còn nỗi buồn phải giữ lại, ép lại. Cái hài không giải tỏa được nỗi buồn mà cứ ấp ủ hoài nên nặng nề đầu óc, thành ra trầm cảm, lặng đi, lử thử và càng thấm đẫm cái buồn”.

Tháng 3/2012, trong bài viết: “Hoài Linh: Tôi là thằng liều lãng mạn” của báo NLĐ, Hoài Linh bày tỏ:“Khi tôi yêu thì yêu hết dạ và không chừa lại gì cho mình. Nhiều người sành điệu mỗi khi nói về trải nghiệm tình trường vẫn hay nói: “Hãy dành lại cho mình 50%, đừng trao hết để rồi đau khổ. Tôi thì không phải vậy, đã yêu thì yêu hết mình, đốt cháy tim mình trong ái tình để mình cảm nhận cuộc sống này có một người làm cho tim mình run lên theo từng cung bậc.”

Danh hài san sớt:“Tôi lãng mạn nhưng phục vụ cho sự hài hước, yêu nhưng không bi lụy để gần gụi với bối cảnh sống hàng ngày của con người đương đại.”

Giải đáp về những câu thoại có nhiều kiều cười nói tục giảng thanh, Hoài Linh cho biết:“Tôi là người rất kỹ lưỡng trong từng câu diễn hài trên sàn diễn. Tuy nhiên, trong từng vai diễn lại đề nghị cách thoại khác nhau. Thành thử, tùy theo nghĩ suy của mỗi người mà nhòm, đánh giá. Đằng sau mỗi lời thoại hài của tôi luôn ẩn chứa nhiều điều về cuộc sống" –Báo Đời sống luật pháp- Trích: Người nghệ sĩ lười tập nhất làng nghệ thuật. Đăng hồi tháng 10/2012.

Trong bài phỏng vấn “NS Hoài Linh: Tôi là người điên nhất” đăng trên Khám phá ngày 3/7/2013 vừa rồi, Hoài Linh trải lòng:“Tôi tự nhận thấy mình có cái cốt nhà quê xịn, nên có nhiều tiền mua đồ hiệu mặc vào thì vẫn không thể che được cái cốt nhà quê của tôi, thôi thì đành vậy, mình cứ mặc đồ nào cảm thấy che được tấm thân nhà quê này cho khỏi "trúng gió, trúng máy" chứ không cần phải đẹp.”

Anh khôi hài:“Tôi điên là vì tôi từng từ khước nhiều show diễn rất nhiều tiền, nhiều người bảo rằng tôi điên vì chê tiền. Nhưng tôi nghĩ rằng nuốt cái gì xương xẩu quá thì ngại lắm.”

Theo Nguoiduatin.Vn


Chia sẻ NSND Hữu Tuấn - Người kể chuyện làng quê bằng ảnh



"Kiểm đếm" đủ thì NSND Hữu Tuấn có nhiều chuyến sáng tác nông thôn hơn cả, đơn giản vì ông sợ "lũy tre hay cây đa đầu làng" sẽ không còn nữa.

Từng chụp ảnh màu, thấy "không ra nhà quê", Hữu Tuấn chuyển sang đen trắng, bởi theo ông thì "ảnh đen trắng mộc mạc nhưng tải được nhiều thứ hơn". Ông dấn: "Giá trị của một bức ảnh không phụ thuộc nhiều vào đề tài, nhưng với đề tài nông thôn thì khác, cội nguồn văn hóa Việt Nam là ở đó".

NSND Hữu Tuấn.


Ảnh nông thôn dễ gây xao xuyến vì ai chẳng có quê, ở đó có nhiều thứ bình dị mà gắn bó đến nao lòng. Bà cụ lưng còng vẫn đi mua hào mắm, những con trâu thong thả qua đám cỏ may triền đê… Song, chụp nông thôn thời thành phố hóa, nếp xưa và nay lẫn vào nhau, quả không dễ, không cao tay thì ảnh nghệ thuật ra ảnh báo chí, ảnh cảnh quan, nhưng Hữu Tuấn đã làm được.

Tác phẩm "Buổi sáng mùa đông" chụp ở Nghệ An, có tính khái quát đời sống nông thôn hôm nay. Một người đàn bà ngồi co ro, chẳng thèm chú ý đến ống kính, gần bà có một chú chó, nó hướng về người đàn ông đang đánh xe bò, toàn bộ trên nền sương đục. Êm ả thật song ta như nghe thấy âm thanh mưu sinh lộc cộc. Bức ảnh không gây cảm giác buồn, ngược lại, nó buộc ta yêu các nhân vật, bởi người với người, với súc vật quá tình cảm. "Góp giỗ", được chụp bên trong ngôi nhà cổ bề thế, bàn thờ tiên nhân oai nghi; chiếc sập ở gian chính giữa, nơi chỉ dành cho vế trong họ khi giỗ chạp. Ở đó, đập ngay vào mắt là người đàn ông trung tuổi, ngồi hút thuốc lá, vẻ mặt oai quyền, bàng quan; phía xa là hai người phụ nữ rúm ró dưới đất, ở ngay cửa gian giữa, một người nét mặt hoang mang, sợ sệt chuẩn bị bước vào. Với chú giải "Góp giỗ", người xem hiểu rằng người nữ giới chuẩn bị vào nhà không còn là dâu của nhà này nữa. Và, qua ảnh, ta thấy nếp xưa, tính gia trưởng hay thân phận bé mọn của phụ nữ, mà nói như nhà văn Nguyễn Công Hoan thuở trước thì "phụ nữ là nữ nhân ngoại tộc, ai kể", nay vẫn hiện hữu đâu đó dù đường làng đã thay gạch chỉ bằng bê tông.

Phần đông ảnh nông thôn của Hữu Tuấn chụp trẻ nít và phụ nữ, có vẻ ông muốn đứng về phe yếm thế, điều có thể thấy rõ trong tác phẩm "Nỗi khó nhọc". Hữu Tuấn chụp một đàn bà tíu tít đạp xe trên đê, bên chiếc xe đang lao như điên là một chiếc xe đạp "rảnh rỗi, đứng chơi" và chủ nhân của chúng nhàn tản trong quán nước chè gần đó. Qua khoang cửa, ba người đàn ông không rõ mặt đang an nhàn nhả khói. Nông thôn thành thị hóa rầm rầm nhưng Hữu Tuấn không chụp nhà bê tông lênh khênh bên ngôi nhà tranh bé cũ, ông chụp thằng bé mặc bộ pizama trông như "em chã", bên cạnh là con chó nghển đầu định liếm má, phía xa là lũy tre. Pizama là thứ áo quần thường thấy ở thành phố, khi đứa trẻ nông thôn mặc bộ này thì nông thôn hôm nay thế nào…

Hữu Tuấn tự nhận mình chịu ảnh hưởng của nhà nhiếp ảnh bậc thầy thế giới Carties Bresson, về cách khái quát xã hội trong một bức ảnh. Song, ông cho rằng "ảnh hưởng không có tức là thuổng ý tưởng, nó buộc mình phải tìm tòi cái mới". Có lẽ thành thử mà ảnh nghệ thuật về nông thôn của Hữu Tuấn đưa ra nhiều điều mới lạ, cả những thứ mà đứng trước nó nhiếp ảnh tưởng như bất lực. Từng học mỹ thuật, lại là nhà quay phim, hai nghề đó giúp ông rất nhiều khi cầm máy ảnh. Nhưng, Có lẽ, sự khác biệt có được là nhờ Hữu Tuấn biết bấm máy đúng thời điểm, lúc nhận thức chuyển hóa thành cảm hứng. Ảnh của ông ấm và sâu, lại lãng mạn, góc nhìn làng quê của ông chan chứa tình người.

Nếu quay phim mang lại cho Hữu Tuấn danh hiệu NSND thì nhiếp ảnh đã đưa ông ra với thế giới. Ông được mời triển lãm ảnh ở Nhật Bản, Hà Lan, Đan Mạch, đi dạy một "cua" ở Argentina. Ông nói: "Với quay phim, tôi chưa bao giờ hết mình vì luôn bị đạo diễn khống chế. Với nhiếp ảnh, tôi chụp hết mình nhưng kết quả còn nhỏ bé lắm". Là ông khiêm tốn vậy, chứ phía sau những tác phẩm nghệ thuật của Hữu Tuấn là cả một thiên truyện về làng quê Việt Nam với đủ cung bậc tình cảm, những "hỉ, nộ, ái, ố", điều ít người làm được…


Làng quê phụ nữ được 'đặc ân' không phải làm ruộng

Nghề nông chỉ dành cho... Đàn ông

Rời dòng sông Hương êm dịu nằm giữa lòng TP. Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế), chúng tôi men theo quốc lộ 1A chừng 10km để đến với ngôi làng kỳ lạ này. Dù rằng đã biết đến Tục lệ không cho vợ làm ruộng từ trước, thế nhưng chúng tôi vẫn không tránh khỏi sự ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh tượng nơi đây. Cánh đồng rộng thẳng cánh cò bay nhưng chẳng có bóng vía một "má phấn" nào cả. Phóng tầm mắt ra xa hơn nữa, cũng chỉ thấy dáng vẻ thô kệch của các chàng trai quanh năm "bán mặt cho đất bán lưng cho trời" đang hăng say làm việc. Những câu chuyện nhậu nhẹt thâu đêm, những trận cầu đinh làm đắm say người hâm mộ, hay những lời bán tán về một cô gái xinh đẹp làng bên cứ thế vang lên khắp cánh đồng.

Mấy sào ruộng trong nhà đều do một tay ông Hồ Công Lâm săn sóc.

Nơi đây, tất thảy mọi công việc đồng áng từ cày cuốc, gieo giống, bón phân, nhổ cỏ, gặt hái... Tất tần tật cho đến ngày thu hoạch đều do đàn ông trong làng thực hành. Đến những việc có phần vất vả trong nhà như tu tạo chuồng trại, bưng bê... Đàn bà đều không được làm. Người phụ nữ ở làng này chỉ có việc duy nhất can hệ đến lúa gạo là... Nấu cơm.

Ông Trương Hữu Chi (59 tuổi), trưởng thôn Công Lương, chỉ tay về phía cánh đồng rồi nói:"Đồng lúa trong làng được rộng minh mông, quanh năm xanh tốt, năng suất vượt trội tất cả đều nhờ mồ hôi công sức của những thanh niên trai tráng và đàn ông trong làng tạo nên đấy. Chỉ nhìn qua thì không thể nào biết được điều đó đâu".

Nói như thế không có nghĩa đàn bà trong làng là những người vô công rồi nghề, vô dụng không làm được gì cả. Họ sinh ra là đã có được đặc ân này, rất nhiều lão nông khẳng định với chúng tôi như vậy. Ông Hồ Công Lâm (60 tuổi, ngụ thôn Công Lương) nói: "Đàn bà con gái ở làng này sướng lắm, vợ tôi cũng vậy, tôi không bao giờ cho vợ ra đồng làm việc. Thông tục này đã có từ rất lâu rồi, từ khi tôi sinh ra đã có nên cứ thế mà mần theo thôi".

Chúng tôi đấu men theo đường mương, lội xuống ruộng để tìm hiểu rõ hơn về Tục lệ này. Anh Nguyễn Văn Lai (28 tuổi) vừa nhổ cỏ vừa cho hay:"Tôi mới cưới vợ cách đây mấy năm thôi. Nhưng từ ngày cưới đến giờ chưa một lần tôi cho cô ấy xuống ruộng". Hỏi tiếp lí do thì anh cười bảo: "Một phần vì tôi thấy làm nông cực quá nên không để vợ tôi phải ra đồng. Phần vì cô ấy có biết gì đâu mà làm, không biết làm ruộng là làm những việc gì cả. Tục xưa giờ thế rồi!".

Lội tiếp qua thửa ruộng bên cạnh, chúng tôi gặp anh Nguyễn Sáu (47 tuổi) đang ngồi nghỉ bên lề. Anh cho hay:"Vợ tôi hiện đang ở nhà chăm sóc cho mấy đứa nhỏ, xong rồi lo cơm nước trong nhà, chứ đồng áng bao đời nay gia đình tôi đâu có cho nữ giới làm. Còn tôi thì sáng chiều hai buổi ra đồng lo cho mấy sào ruộng. Tuy làng này là làng thuần nông nhưng cánh đàn ông chúng tôi mới đích thị là dân cày, còn phái đẹp thì không phải".

Chưa dừng lại ở việc không biết làm ruộng, ngay cả con đường đi đến ruộng của nhà mình các chị cũng không biết."Có lần tôi nhờ vợ mang cơm trưa ra đồng vì tôi mệt quá, thế mà phải mất hơn tiếng đồng hồ sau cơm mới đến được. Hỏi ra mới biết là do không biết đường nên đi vòng vo, hỏi hết người này đến người khác mới tìm ra", anh Sáu cho biết thêm.

Ông Trương Hữu Chi nói vui với chúng tôi: "Ở làng này, dù các chàng đau ốm đến mức chẳng thể ra đồng cấy cày thì các nàng cũng không phải ra đồng mà chỉ việc thuê vài người tin cậy về thay chồng quán xuyến việc đồng áng. Tuy nhiên, những lúc này, để đáp lại tình yêu mà chồng dành cho mình, các cô thường toan lo, coi ngó rất chu đáo. Nè thuốc thang, cơm cháo đều được các cô chuẩn bị sẵn sàng. Nhiều đêm như vậy mà bị cúp điện, những người nữ giới ở đây thường thức trắng để quạt mát và coi ngó khăn nước cho chồng mình".

“Công việc của các chị em nữ giới trong làng cốt yếu là làm hương, chằm nón và buôn bán”, bà Hoàng Thị Hoa, 55 tuổi cho biết.

Vợ là số 1

“Làng thương vợ” độc đáo ở Việt Nam

Ông Trương Hữu Chi cho biết thêm:"Hiện làng có khoảng 300 hộ dân sinh sống và chủ yếu sống bằng nghề nông. Từ trước đến nay các cặp vợ chồng trong làng đều sống với nhau hạnh phúc, rất mực thương và hòa thuận. Tuy có đôi lúc cãi vã nhưng rồi cũng đầm ấm như trước. Đặc biệt, là chưa có đôi vợ chồng nào phải ra tòa viết đơn ly hôn. Có nhẽ cũng chính vì lý do không để vợ ra đồng dầm mưa dãi nắng nên mọi người đặt cho nơi đây cái tên dại là "làng thương vợ". Nói như vậy cũng đúng vì ở đây chỉ có tình ái là một thứ diệu kỳ, các cặp vợ chồng rất quý trọng nhau, họ dành cho vợ mình những gì tốt nhất mà hiếm vùng đất nào có được”.

Chồng không cho làm ruộng, các công việc vất vả khác cũng không được đụng vào nhưng các cô gái trong làng không vì vậy mà chỉ biết ở nhà ăn chơi. Công việc thường ngày của các chị em là làm hương, chằm nón, buôn bán phụ giúp thêm cho gia đình.

Tìm đến nhà chị Nguyễn Thị Sa (53 tuổi), bên ly nước mía chị kể: Trước đây, khi chưa lấy chồng chị ở xã Thủy Thanh, gia đình làm nông rất giỏi và chị là một trong số những người làm chính trong nhà. Từ khi về làm dâu ở xã Thủy Vân này cũng đã hơn 20 năm nhưng chưa lần nào chồng chị bắt phải ra làm ruộng hay bất cứ một việc nặng nào cả. Nhà có 5 sào ruộng và vớ mọi việc đều do chồng chị một tay làm. Hiện chị Sa chỉ việc ở nhà lo cơm cháo và bán nước mía để kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình.

Ông Lâm chia sẻ:"Vợ chồng tôi sống với nhau đã mấy chục năm nay nhưng chưa bao giờ có một vụ to tiếng nào làm làng xóm phải dị nghị cả. Mỗi nơi mỗi khác, nơi đây không để vợ ra đồng làm việc là cách mà đàn ông chúng tôi biểu đạt tình cảm. Tục tằn này nghĩ lại cũng hết sức đúng, bởi lẽ những người đàn bà khi sinh ra đã chịu nhiều thiệt thòi hơn đàn ông, lại phải chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau cho chúng ta những đứa con, đứa cháu mũm mĩm. Đàn ông chúng ta chấp thuận làm những việc khó nhọc đó cũng là điều thế tất nên làm mà thôi!".

Chị Trương Thị Đụng (48 tuổi) là một phụ nữ xinh đẹp, làn da trắng bóc, đôi tay thoăn thoắt đan những vòng nón để chờ ngày giao hàng. Gặp chúng tôi, chị hồ hởi nói:"Các chú nhìn da tôi là thấy rồi đấy, tôi không bao giờ phải ra ruộng cày bừa. Chồng tôi yêu tôi lắm, cả ngày làm dù có mệt mấy cũng chẳng lớn tiếng quát tháo dù chỉ một câu. Thấy thương chồng nên tôi chăm nom việc nhà rất kỹ càng, cơm luôn sẵn có để anh ấy về có cơm nóng mà ăn cho ngon miệng". Để phụ giúp thêm cho chồng mình, chị Đụng ở nhà làm thêm việc chằm nón rồi nuôi vài con gà, con vịt. Chị kể, những năm kinh tế hao, vụ mùa không đạt năng suất cao, đã nhiều lần chị trao đổi với chồng là cùng nhau ra ruộng làm việc, trồng thêm vài loại sắn, đậu nhưng anh ấy đều không chấp nhận.

Thông thường ở đây một năm người dân canh tác hai vụ lúa, sau khi kết thúc công việc đồng áng, đàn ông trong làng thường đi làm mướn phụ hồ ở thành phố, đạp xích lô, làm mộc để kiếm sống hoặc ở nhà phụ bán với vợ. Tuốt luốt đều rất "chuyên nghiệp" như những người thợ lành nghề. Anh Lưu (50 tuổi) san sớt: "Sau khi dọn dẹp bán hết số lúa thu hoạch được, tôi thường xuôi về tỉnh thành làm thợ hồ. Nhưng việc này thường bữa có bữa không nên thu nhập cũng không ổn định. Nhưng dù sao cũng kiếm được thêm chút tiền để vợ ở nhà khỏi lo thiếu cái ăn".

Diễm phúc của người nữ giới Công Lương

Ông Trương Hữu Chi, trưởng thôn Công Lương cho biết:"Ở dải đất miền Trung khắc nghiệt này, chắc không có nơi nào người nữ giới "sướng" như ở làng Công Lương này. Vừa được chồng rất đỗi thương tình lại chẳng phải hằng ngày ra đồng giẫm bùn đạp đất. Bù lại cánh mày râu cũng được hãnh diện khi có những người vợ hiền phụ trách việc nhà, thương chồng lo con. Kể ra đây cũng là diễm phúc mà làng có được từ bao đời nay!".

Ngao du


Cả làng thức đêm để... giữ bổ xung chó!


VỀ NHỮNG ĐIỂM NÓNG

Chương trình thời sự buổi tối vừa kết thúc, anh Lê Văn Năng (ở thôn 6, xã Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu, Nghệ An) đã bảo đứa con trai út chạy ra xích cổ con chó Bấc đưa vào nhà dưới. Có nhẽ đó là công việc thân thuộc mỗi buổi tối của cu Khiếu (con anh Năng) nên mới 8 tuổi đầu mà cậu làm lanh lẹ, gọn như người lớn. Con Bấc thuộc giống chó béc-giê Đức, cao gần bằng thằng bé cũng ngoan ngoãn theo Khiếu vào nơi an toàn dành cho nó buổi đêm. Anh Năng nhìn khách cười đãi đằng: “Mấy năm trở lại đây, tình hình trộm chó ở địa phương rất phức tạp, có đêm một thôn mất cả chục con chó. Bọn trộm chó rất oắt con, hiểm, không chỉ bắt chó mà còn tấn công cả người dân nếu cản ngăn chúng. Thành thử để bảo đảm an toàn cho chủ và chó, tốt nhất buổi tối nên xích lại”. Ấy thế nhưng làm theo cách anh Năng xem ra cũng không ổn lắm, vì nếu không có chó giữ nhà, bọn đạo chích lại đột nhập trộm những tài sản khác, có khi còn giá trị hơn.

>> Sáng kiến chống trộm chó ở một vùng quê

Nhà ông Hồ Văn Huệ (ở xóm chợ Vân) có mấy sào bắp, cà chua, dưa lê đến độ thu hoạch. Buổi tối, ngoài ông và đứa con trai phải thức đêm canh giữ còn có hai “trợ thủ” đắc lực là con Vàng và con Vện. Mấy năm qua, hai con chó nhà ông đều làm tốt nhiệm vụ của mình, chí ít nếu người dân địa phương nào đó tắt mắt thủ túc, đều được Vện - Vàng cảnh báo hay sủa váng lên cho chủ biết. Thế nhưng tháng rồi, lúc trời lờ mờ sáng, ông Huệ đang say ngủ thì nghe tiếng kêu “oắng... Oắng”. Giật mình tỉnh dậy ông đã thấy con Vàng bị hai đối tượng chạy xe máy quăng thòng lọng lôi đi xềnh xệch, con Vện may mắn thoát chết cúp đuôi chạy núp vào trong nhà.

Rời xã Quỳnh Văn, chúng tôi qua xã Ngọc Sơn - một trong những địa phương “nóng” của huyện Quỳnh Lưu về nạn trộm chó. Cách đây chưa đầy hai tuần, khoảng 5 giờ sáng, người dân xóm 2 đã mật phục và phát hiện hai đối tượng đi xe máy đang trộm chó nên hô hào người dân chặn đường bắt giữ. Sau một hồi truy đuổi, người dân đã bắt được một đối tượng với vật chứng là chiếc bao tải đựng năm con chó, đối tượng còn lại nhanh chân tẩu thoát. Do quá uất ức vì chó liên tiếp bị bắt trộm nên một số người quá khích đã giội “cơn mưa đòn” khiến đối tượng này chết trước lúc công an kịp đến giải cứu. Các đối tượng trộm chó bị người dân đốt xe, “xử tử” tại chỗ ghê gớm là thế nhưng bẵng đi vài tuần, trên địa bàn xã này chó vẫn đấu bị bắt trộm.

Chị Hồ Thị Hằng, mới bị mất 4 con chó cho hay: “Bọn trộm phần lớn là con nghiện nên khi đói thuốc chúng rất liều lĩnh, bất chấp cả tính mệnh. Nuôi chó để giữ nhà nhưng giờ người dân lại phải thức đêm mà... Giữ chó, hễ nghe có tiếng chó kêu thất thanh ở đâu là cả làng thức dậy bật điện sáng choang, mất ăn mất ngủ vì chó! Cứ sểnh ra một tí là mất ngay, bất kể ngày hay đêm”.


Con chó của anh Mai Văn Thường (Tân Phú, Đồng Nai) rồi đây sẽ trở nên mồi ngon cho bọn cẩu tặc

Có lẽ chưa có xã nào trong cả nước lại mất nhiều chó như ở xã Tân Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An. Theo ông Lưu Xuân Hùng, Trưởng công an xã thì mỗi ngày xảy ra gần chục vụ trộm chó. Từ tết Nguyên Đán trở lại đây, nạn trộm chó rộ lên, hàng ngàn con chó của xã đã sa vào tay bọn trộm. Có trường hợp dắt chó đi vệ sinh, bị bọn chúng ngang nhiên cướp ngay trên tay, khổ chủ chỉ biết đứng nhìn bùi ngùi. Chính quyền địa phương, công an xã lên kế hoạch bằng, kêu gọi người dân không thả rông chó, đặc biệt lúc trời chập tối hoặc tinh sương sáng. Nhưng chó vẫn mất, mà lòng người cũng không khỏi phẫn uất, hậm hực.

Ngày 10-6-2013, trên địa bàn xã Tân Thành xảy ra vụ án mạng hoảng hồn can hệ đến trộm chó. Do đói thuốc nên Nguyễn Trọng Hóa (ngụ xóm 1, xã Diễn Lâm, huyện Diễn Châu) rủ em trai Nguyễn Trọng Minh đi trộm chó. Sau khi bắt được chó, hai anh em bị người dân phát hiện truy đuổi. Hoảng quá Hóa chui vào ống cống nhưng bị người dân đưa rơm thui hai đầu nên nghẹt thở phải bò ra, còn Minh chui vào một chuồng gà rồi leo lên mái nhà tẩu thoát. Tuy nhiên, khi lực lượng công an chưa kịp xuống hiện trường thì Hóa đã bị một số thanh niên quá khích đánh chết, Minh may mắn chỉ bị gãy tay và sau đó được lực lượng cảnh sát giải cứu.

TRỘM CHÓ NHƯ... NẠN DỊCH

Những năm gần đây, vấn nạn trộm chó không chỉ xảy ra ở các tỉnh Bắc bộ, Bắc Trung bộ mà đã và đang “phát tán” ra các vùng của cả nước. Vùng quê bao năm thăng bình hiện giờ trở nên hỗn loạn bởi tiếng kêu cứu thất thanh của người dân, tiếng ăng ẳng của chó bị dính tròng lôi đi xềnh xệch trong đêm. “Cứ vào tầm gần khuya hay tinh mơ sáng, bọn trộm chó vào các làng sạo sục, đặt bả, gài bẫy. Cứ nghe tiếng chó kêu ở đâu là biết ngay bọn trộm đang ra tay ở đó. Trước sự lộng hành, ngang ngược của các băng nhóm “cẩu tặc”, chúng tôi quyết định mai phục. Nhưng sau một số vụ bị bọn chúng truy sát bằng mã tấu, bắn trọng thương thì chúng tôi không dám cản trở nữa. Giải pháp tốt nhất là đêm đến kín cổng cao tường, xích chó vào tận trong nhà cho an toàn” - ông Nguyễn Văn Tuyên (ở xã Bình Tân, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) cho hay.

Sự việc xảy ra đã vài năm nay nhưng cho đến hiện giờ người dân ở thôn Tân An, xã Nghĩa Thắng, huyện Tư Nghĩa vẫn chưa hết bàng hoàng, bức xúc. Đang đi trên đường thì anh Lê Quang Khải và người bạn đi cùng phát hiện hai đối tượng kéo lê một con chó vừa mới trộm được. Anh Khải và bạn quyết định truy đuổi bắt giữ bọn “cẩu tặc” nhưng bị chúng bất thần ném ớt bột vào mặt nên bị mất vô lăng té ngã. Do vết thương quá nặng, anh Khải chết trên đường đi cấp cứu, người bạn bị trọng thương. Tình hình bọn trộm chó lộng hành đã khiến người dân ở các huyện của tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi khôn cùng hoang mang. Vừa qua có một cuộc diễn tập chưa từng có trong tiền lệ diễn ra ở huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi: diễn tập chống trộm chó với gần 1.000 người dự.

Tang chứng một vụ trộm chó được ngành chức năng bắt giữ

Trộm chó như một “bệnh dịch” lan ra khắp cả nước mà chưa có một phương thuốc hữu hiệu nào ngăn ngừa, chữa trị. Tại các tỉnh Đông Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long, nạn trộm chó cũng hoành hành không kém. Về Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước đâu đâu cũng nghe chuyện mất chó, các đối tượng trộm chó nhiều như rươi, ngày một lộng hành, manh động. “Có đêm đang ngủ, nghe tiếng chó sủa nhưng vợ chồng tui chẳng dám chạy ra xem thế nào. Bọn chúng vừa bắt chó, vừa đe dọa người dân, nếu bị ngăn cản là dùng hàng nóng “phăng” ngay. Giờ gia đình nào muốn nuôi thì đêm đến chịu khó nhốt hay xích vào trong nhà, chứ chỉ vì một con chó lỡ xảy ra án mạng thì oan khiên lắm” - anh Mai Văn Thường ngụ xã Trà Cổ, huyện Tân Phú, Đồng Nai tỏ.

Nạn trộm chó khiến người dân ở các huyện Trảng Bom, Định Quán, Tân Phú, Thống Nhất, Long Thành của tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua ăn ngủ không yên. Mới đây, khoảng 2 giờ sáng 26-6, anh Võ Hoàng Nam (ngụ tổ 6, ấp Cầm Đường, xã Cẩm Đường) đang nằm ngủ thì nghe tiếng chó kêu thất thường nên mở cửa ra xem. Bất ngờ anh bị một thanh niên cầm súng điện bắn vào ngực gục tại chỗ, sau đó chúng bắt hai con chó của gia đình rồi lên xe tẩu thoát. Sáng khi người dân phát hiện thì anh Nam đã chết trước đó.

Tại các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bạc Liêu, Đồng Tháp... Các tổ “cẩu tặc” cũng hoạt động liều lĩnh, ma mãnh. Những nhóm trộm chó này thường dùng dây thòng lọng, đánh bả, mồi nhử để bắt chó; thậm chí chúng còn trang bị luôn “hàng nóng” để chém chết chó lang thang trên đường và sẵn sàng chống trả người dân khi bị truy đuổi, bắt giữ. “Nghe láng giềng kêu thất thanh mất chó, tôi vừa mở cửa ra xem thì bị một tên dùng súng chĩa bắn phập vào cửa. Thấy bọn chúng manh động quá nên đành chốt chặt cửa cho yên thân. Thật trớ trêu là một vấn nạn như thế nhưng chúng ta lại không có chế tài nào đủ sức răn đe bọn “cẩu tặc”, để chúng ngày một lộng hành, gây bức xúc, hoang mang cho người dân” - anh Phạm Văn Giang (ở thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, Long An) tâm tình.


Nhà nhiếp ảnh kể câu chuyện tốt của giếng làng

Thưa anh, rất nhiều người trên mạng tầng lớp facebook đã thú vị chiêm ngưỡng và dõi theo bộ sưu tập ảnh về giếng làng của anh, từ đâu mà anh có ý tưởng giả ảnh này?

- Là người chụp ảnh đeo đuổi đề tài về làng nghề, tôi dành thời gian đi khắp các làng quê Bắc Bộ để tìm hiểu và chụp ảnh về các nghề truyền thống, đồng thời vinh danh các nghệ nhân làng nghề. Trong các chuyến đi đó tôi bắt gặp những chiếc giếng làng rất đẹp. Ở ngoài Bắc hầu như làng nào cũng có ít nhất một cái giếng, là một thành phần chẳng thể thiếu đã tạo thành hình ảnh “cây đa, giếng nước, sân đình”.

Giếng không chỉ là nguồn nước mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh đã tạo nên văn hóa làng. Thế nhưng, hiện tại, giếng làng không còn được bảo vệ như trước, nơi thì bị lấp để làm đường, nơi thì bị ô nhiễm không thể dùng, chỗ thì đất cứ tự đùn lên làm cạn giếng. Tôi chụp bộ ảnh này chỉ muốn làm sao để nhiều người dân cùng biết rằng có những cái giếng làng đã từng tồn tại, giờ đang phải đấu tranh với những đổi thay của thời thế, để họ cùng có ý thức giữ giàng.

Một tác phẩm Giếng làng của nhiếp ảnh gia Lê Bích.

Ở những ngôi làng anh đã từng qua, trong tâm thức người dân, một cái giếng nước mát lành, là nơi sinh hoạt cộng đồng chan hòa thân thiết có còn giữ được vị thế của nó nữa không?

- Trong nhiều ngôi làng, chiếc giếng vẫn được coi là một công trình khôn thiêng, nhờ chuyện trò với nhiều người dân tôi được biết rất nhiều điều thú nhận. Chả hạn ở làng Thượng Hội, xã Tân Hội (Đan Phượng, Hà Nội), có 3 giếng cổ vẫn được bảo tàng nguyên lành.

Ba giếng cổ nằm tuần tự ở đầu làng, giữa làng và cuối làng. Chiếc ở đầu làng hình vuông, biểu tượng cho đất mẹ, nuôi dưỡng con người và soi bóng ngôi chùa cổ kính. Giữa làng, giếng xây tròn vành vạnh, dân thôn coi đó là hình quạ để ngày ngày luôn có ánh dương tỏa chiếu, hòa khí âm dương làm con người hạnh phúc. Ở cuối làng là chiếc có hình bầu dục.

Dân làng coi đây là tấm gương lớn, người dân trước khi ra khỏi làng hoặc lúc quay về thường soi mình vào đây. Giếng được xây gạch cẩn thận, có bậc lên xuống để gánh nước, tường xây gạch bao quanh, bệ thờ thần giếng vững chắc. Hay trong Hoàng thành Thăng Long, có đến 26 cái giếng cổ vẫn được bảo tồn tốt cho đến hôm nay, hoặc ở làng Diềm (Bắc Ninh) chiếc giếng cổ vẫn còn nguyên với những huyền tích và phong tục tốt đẹp. Chẳng hạn cho đến thời điểm này, trai làng Diềm đi cầu thân vẫn mang gạo nếp ra, lấy nước ở giếng vo để thổi xôi đem đi hỏi vợ. Tôi nghĩ giếng làng đã bén rễ rất sâu trong tiềm thức của người dân nông thôn, việc nó bị ô nhiễm, không được bảo tồn tôn tạo có lẽ phần đông là do tác động ngoại cảnh, môi trường, cách thức sinh hoạt.

Từ bộ ảnh “Giếng làng” của nhà nhiếp ảnh Lê Bích, tháng 6.2013, một ê- kíp phim tài liệu của trọng điểm Sản xuất phim tài liệu, Đài Truyền hình VN đã tổ chức thực hiện một bộ phim về giếng làng. Đoàn phim đã mời tác ra cái vẻ ảnh dự với nhân cách người đồng hành, dẫn chuyện, phim hiện đang được làm hậu kỳ và sẽ phát sóng trên VTV thời kì tới.

Bộ ảnh về gần 100 chiếc giếng làng của anh thật công phu và đem đến nhiều xúc cảm cho người xem, anh có ý định mở một cuộc triển lãm không?

- Bộ ảnh của tôi thực hành theo phong cách ảnh báo chí, để làm tư liệu, không dàn dựng mà tụ họp phản ảnh đúng sự thật, có thể nó không thiên về mỹ thuật nhưng nó sẽ là tư liệu tốt cho những ai quan hoài đến giếng làng.

Cũng có khá nhiều người làm về kiến trúc, tài nguyên môi trường đã mong muốn được dùng bộ ảnh của tôi để giúp sức cho việc nghiên cứu, giảng dạy của họ.

Về việc một triển lãm cá nhân chủ nghĩa thì đó không phải mục đích chung cục của tôi, vì chưa chắc số lượng người xem đã nhiều bằng việc những bức ảnh này được giới thiệu trên báo chí, mạng tầng lớp. Tôi muốn có nhiều người biết về những chiếc giếng làng này, cùng sẻ chia với nhau những kỷ niệm, cảm nhận để từ đó có ý thức giữ gìn một nét đẹp nguyên thủy của làng quê VN.

Theo cảm nhận của anh, cuộc sống đương đại đã làm đổi thay những sinh hoạt cộng đồng làng quê bên bờ giếng như thế nào?

-Tôi rất yêu các làng quê với hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình vốn là nét đặc trưng của kiến trúc làng Việt. Trong đó giếng làng tồn tại trong nếp sống sinh hoạt có từ xưa. Chính nên chi tôi đã đặt cho mình mục tiêu là chụp ảnh lại những chiếc giếng đẹp và phản ánh những sinh hoạt cộng đồng. Tôi cũng biên chép lại những câu chuyện được nghe kể về những chiếc giếng đó, nó gắn với cả thế cục của những cụ cao niên trong làng. Tại nhiều ngôi làng, giếng vẫn là nơi con trẻ tập trung, bơi lội tắm mát, có giếng trong sạch nên vẫn được người dân múc nước uống luôn, nhưng có nhiều giếng đã bị ô nhiễm nguồn nước đến mức chẳng thể sử dụng nổi.

Tôi thích nhất một ý của họa sĩ Lê Thiết Cương về giếng: “Giếng là nơi sâu nhất của làng... Sâu nhất, thấp nhất cũng có nghĩa là nơi chứa đựng được nhiều nhất. Bởi thế lòng giếng cũng là lòng làng, lòng người. Bất luận thế nào nếu nặng lòng quá với những gì đã qua, nếu cứ chứa chất mãi cho dù hay dở làm nó đầy thêm thì sống tiếp sao được?”. Thế nên mỗi năm, dân làng lại tát giếng, thau giếng, gánh nước giếng về nhà vào mỗi ngày trước hết của năm mới để coi sự đủ đầy, hòa thuận. Những thô tục tốt đẹp ấy, không nhiều làng còn giữ được. Đó là một điều tôi cảm thấy rất tiếc.

Xin cảm ơn anh!

Ngọc Anh (thực hiện)


Chuyện tin buồn làng xuất khẩu lao động

Gan góc (bìa phải) và ông Hồng bên “chiếu” rượu giải phiền.

Những người đàn ông trơ

Rẽ qua những con đường nhỏ quanh co trong thôn 5 nằm bên cửa biển Lý Hòa thuộc làng Lý Hòa, tôi gặp anh Đoàn Văn Dũng cầm cái lon nhựa đi ra từ túp nhà xập xệ. Bắt tay tôi, gan góc chỉ vào túp nhà, bảo: “Vào đi, miềng đi lấy cút rượu”. Tôi vào nhà thấy bạn rượu dũng mãnh là ông Hồng đang nằm trên tấm đệm trải giữa nền nhà. Cạnh tấm đệm là “bàn” nhậu đang dở dang gồm một cái xoong nhỏ kho mồi tép biển, hai cái bát, một cái chén đặt trên nền đất.

Ông Hồng ngồi dậy, nói: “Thấy thằng Dũng đơn thương độc mã quá, miềng sang đây nhậu cùng cho nó đỡ buồn. Vừa hết chai thứ nhất, nó đang đi lấy tiếp. Nhậu từ sáng sớm mà đã 9 giờ, chưa biết khi nào dừng đây”. Anh Dũng về lấy thêm chén, rót rượu mời tôi nhập cuộc. Nhìn túp nhà trống như một cái ô bàn cờ ăn quan vẽ trên triền cát nóng, tôi hỏi chuyện vợ con, anh tu một chén, nói: “Vợ đi xuất khẩu lao động nay đã “để” tui rồi. Ba đứa con ở với bà ngoại. Đứa lớn đã 19 tuổi, sắp đi theo mẹ nó. Đây là nhà chị gái. Chị đi làm thuê trong Nam nhờ tui trông nhà, hương khói ngày lễ tết”.

Ông Hồng kể: “Thằng Dũng 46 tuổi, vợ nó là Lê Thị Côi, 38 tuổi. Năm 1995 vợ nó đi xuất khẩu cần lao “chui” sang Đài Loan (TQ). Sau 5 năm bị bắt rồi bị trục xuất, về nhà được ít tháng vợ nó giấu chồng làm lại giấy má đi Singapore. Một số người làng Lý Hòa đang lao động ở Singapore về cho biết con Côi đã lấy chồng làm nghề quản lý kỹ thuật tại một khách sạn ở bên đó”. Rót thêm một chén rượu, ông Hồng nói tiếp: “Hồi con Côi đi, thằng Dũng to khỏe như vâm, là thuyền viên số một của tàu đánh cá cỡ bự ở làng này đấy. Từ ngày vợ bỏ đi lấy chống ngoại, Dũng chỉ biết dùng rượu giải khuây. Không ngờ càng ngày nó càng uống tợn, đến mức có thể uống 24/24 giờ. Có hôm say lên xỉn xuống nằm lịm ngoài vệ đường. Nhìn cảnh ấy thấy cơ cực quá”.


Hội mất vợ

Nghe chuyện, dũng mãnh ngừng chén rượu trên tay nhìm đăm đăm ra triền cát, nói vẻ ngẫm: “Một tháng tui đi biển 20 ngày, còn lại 10 ngày vào bờ biết làm gì ngoài uống rượu với hội bạn mất vợ. Vợ đi mất tăm, không một lần điện thoại hỏi han. Thật chuyện đời không biết đường mô mà lần. Tuy thế, chuyến biển nào về tui cũng mang tôm cá đến cho con. Mỗi chuyến được ba, bốn triệu đồng thì cho con một triệu ăn học, còn lại để phòng cho cái thân này khi đau ốm”. Hỏi chuyện vì sao lại để vợ đi xuất khẩu “chui” mới nên hoàn cảnh này, anh nói: “Vợ đi theo “phong trào”, tui giữ không nổi. Giờ tui ở “quá” luôn. Nếu tui đi một bước nữa khác gì gánh gãy đòn triêng (đòn gánh) bước răng được trên cái xứ cát khô không khốc này”.

Hội bạn mà can đảm nói gồm bốn người trong làng cùng chung cảnh vợ đi theo “phong trào” xuất khẩu rồi lấy chồng nước ngoài. Trong hội này có một người đã chết. Đó là anh Nguyễn Văn Phương - chồng chị Phan Thị Hồng ở thôn Thượng Hòa. Hôm ở nhà can đảm ra tôi gặp bà Bình - mẹ của anh Phương - đang ngồi bên chiếc xe đẩy bán nước mía. Hỏi chuyện về tình cảnh của anh Phương, bà Bình ngậm ngùi: “Vợ nó đi xuất khẩu bên Đài Loan để lại hai con cho chồng. Chồng nó không có sức ra biển như người ta nên phải theo nghề xe ôm kiếm sống. Hôm chở khách ra Hà Tĩnh, trên đường trở về không biết phiền thế nào mà say rượu rồi gặp nạn, nằm chết trên đèo Ngang”.

Cách nhà anh Phương không xa là túp nhà của anh Lê Văn Bảy ở thôn Nội Hòa, cùng hội bạn với gan góc và anh Phương. Túp nhà khóa cửa, tôi hỏi người dân qua đường mới biết anh Bảy đang đi uống rượu bên nhà ông Tuất ở thôn 5. Khi tôi đến thấy anh Bảy đang ngồi say trước thềm nhà ông Tuất. Vợ anh Bảy là chị Nguyễn Thị Luyến đi Đài Loan sau chị Lê Thị Côi một năm, cũng để lại hai con cho bà ngoại. Sáu năm nay, chị Luyến không một lần liên lạc với chồng. Trong cơn say, anh Bảy nói: “Vợ nó bỏ đi tôi mới tàn tã thế này. Nghe nói nó sắp lấy chồng bên Đài Loan rồi. Kệ thây nó, nhưng mỗi lần nghe người đời kháo chuyện, xọc tôi chỉ muốn rượu say làm cho suy kiệt hẳn đi”. Nói xong, anh Bảy giục tôi đưa tiền đi mua thêm chai rượu nữa để giải sầu.

Người thứ tư là anh Châu có vợ là chị Lanh ở thôn Trung Hòa. Chị Lanh cũng đi xuất khẩu và lấy chồng ở Đài Loan. Tôi tìm đường đến nhà anh Châu nhưng người dân Lý Hòa khuyên không nên, bởi “họ say quên ăn, quên ngủ. Hễ ai nhắc đến chuyện đi xuất khẩu, nhất là chuyện vợ lấy chồng nước ngoài thì thể nào cũng bị chém. Mẹ vợ cũng từng bị anh ta chém. Xã đã năm lần phải can thiệp thì biết đấy”.

Không thể kiểm soát được những đàn bà đi làm “osin”

Phía sau những thảm kịch nêu trên là những câu chuyện khác về những cô gái Lý Hòa đi xuất khẩu cần lao rồi lấy chồng ở nước ngoài. Đó là Lê Thị Thảo (19 tuổi ở thôn Nội Hải) lấy chồng người Mỹ, gốc Việt; Đặng Thị Ánh (33 tuổi, ở thôn Tân Lý) lấy chồng Đài Loan rồi bỏ, sang Mỹ lấy chồng mới; Nguyễn Thị Nhung và Nguyễn Thị Lý (ở thôn Thượng Hòa) đều lấy chồng Đài Loan; Hoàng Thị Hằng (ở thôn Thượng Hòa)lấy chồng Pháp. Còn có trường hợp Võ Thị Mai sang Hàn Quốc bằng cách cưới giả để nhập cư nhưng lộ tẩy đã bị trục xuất về nước.

Những thông tin nêu trên được phó chủ tịch UBND xã Hải Trạch Phạm Thiếu Song nhấn. Ông nói: “Xã Hải Trạch có hơn 100 nữ giới đi xuất khẩu lao động làm nghề “osin” ở Đài Loan và Hàn Quốc. Họ đi bằng nhiều cách nên Không thể kiểm soát được nạn đi “chui”. Phần đông những người đi hợp pháp nay đã hết hạn cần lao nhưng tìm cách ở lại làm thêm. Thực trạng này khiến Hải Trạch là một trong 23 xã của huyện Bố Trạch bị cấm đi xuất khẩu sang Hàn Quốc. Bây chừ ai muốn đi phải chuyển hộ khẩu sang địa phương khác mới làm được hồ sơ”.

Giảng giải tại sao phụ nữ đi xuất khẩu cần lao lại để xảy những bi kịch ngay trong nhà mình, ông Song nói: “Hiện chúng tôi chưa biết hết còn những ai đã và chuẩn bị lấy chồng nước ngoài, vì trong số lao động nữ có nhiều người đang ở lại làm thêm. Những nữ giới đã lấy chồng nước ngoài là do kinh tế gia đình họ quá khó khăn, có nhà còn mắc nợ trong khi chồng ở nhà không xoay xoả được. Rất có thể đây là cảnh ngộ khiến tình cảm vợ chồng bị nứt rạn, vợ không bỏ hẳn nhưng vẫn lấy chồng nước ngoài gây nên những chuyện buồn ở làng biển này”.

Ngôi nhà của ba dì cháu



Trong bao thảm kịch ngẫm mà buồn ở xã Hải Trạch, riêng có một trường hợp lấy chồng nước ngoài nhưng không bị dân làng Lý Hòa lên án. Đó là chị Hoàng Thị Tuyết (40 tuổi), ở thôn 5, ngay dưới chân đèo Lý Hòa. Chồng chị Tuyết là anh Dương Công Hạnh tử nạn do tàu hàng bị chìm trên vùng biển Trung Quốc. Lúc đó chị Tuyết mới 23 tuổi, có một con gái Dương Thị Loan, 3 tuổi và đang mang thai đứa con thứ hai.

Chồng mất, chị Tuyết đi làm mướn 6 năm quanh làng rồi xuất khẩu cần lao sang Đài Loan từ năm 2004. Từ đó đến nay chị Tuyết mới về nhà một lần để làm nhà và nhờ chị gái đến ở, trông nom hai đứa con ăn học. Hiện Loan là sinh viên năm thứ ba trường ĐH kinh tế Đà Nẵng. Em trai Loan là Lai đang học lớp 11. Hiện ba dì cháu ở trong ngôi nhà mới.


Giận chồng, 'gái thay đổi 2 con' lên Hà Nội bán dâm

Trong lúc giận chồng, S. Bỏ lên Hà Nội rồi dấn thân vào nghề bán dâm. Bị bắt, cô ta nức nở rằng:"Mọi đứa ở quê mà biết chuyện em đi bán dâm thì em chết đi cho rồi".

Chiều 27/6, Công an huyện Gia Lâm, Hà Nội cho biết đang tạm giữ Hoàng Văn Dũng (34 tuổi, ở Kim Thành, Hải Dương) để điều tra về hành vi chứa mại dâm.

Trước đó, vào khoảng 13 giờ 30 ngày 26/6, Công an huyện Gia Lâm ập vào số nhà 192 Phan Đăng Lưu, thị trấn Yên Viên, phát hiện cô viên chức tên S. (30 tuổi, quê Tuyên Quang) bán dâm cho hai khách tại tầng hầm rộng hơn 10m2 của căn nhà.

Dũng tại cơ quan công an.

Hai khách mua dâm nhấn bỏ ra 400.000 đồng để được vui vẻ với "gái" của Dũng.

Theo lời khai của "tú ông" này, hôm đó có 3 khách làng chơi đến mua dâm, vì thiếu viên chức nên S. Phải lần lượt xuống tầng hầm tiếp 2 khách làng chơi. Một khách làng chơi vì phải chờ lâu quá đã bỏ về.

Quê Hải Dương, sau khi bỏ vợ, để lại hai con cho vợ nuôi, Dũng "gá nghĩa" với người phụ nữ hơn anh ta 7 tuổi, cũng đã qua một lần đò.

Sống với người phụ nữ này vài năm nhưng do "vợ hờ" của Dũng không có con nên cả hai đã nhận nuôi một bé trai mới vài tháng tuổi.

Dũng lên Hà Nội, thuê nhà ở thị trấn Yên Viên, hành nghề môi giới mại dâm. "Ổ" mại dâm của Dũng không trưng biển, nhưng khách làng chơi vẫn biết để rỉ tai nhau tìm đến.

Thường nhật căn nhà đóng cửa im ỉm, nhưng thấy có đàn ông đỗ xe trước cửa, biết là những kẻ muốn "tìm của lạ", Dũng sẽ chạy ra mời chào, ngã giá.
Để tránh bị phát hiện, bắt quả tang, Dũng thiết kế một tầng hầm cho viên chức bán dâm tại nhà. Dũng tuyển nhân viên từ các tỉnh khác về và nuôi ăn ở tại quán, nếu có khách thì "phục vụ" tại chỗ.

Từ đầu tháng 6, anh ta tuyển được hai cô gái. Khi có khách có nhu cầu mua dâm, anh ta sẽ thu 200.000 đồng một lượt, và trả cho viên chức 50.000 đồng.

Chiều 26/6 có 3 khách làng chơi đến hỏi mua dâm. Do một viên chức về quê, nên cô S. Đã phải tiếp cùng lúc hai khách.

Bị tạm giữ, cô gái bán dâm tên S. Nói trong nước mắt:"Mọi người ở quê mà biết chuyện em đi bán dâm thì em chết đi cho rồi".

Trong câu chuyện của mình, S. Kể rằng, nhà nghèo, nợ chồng chất, hai vợ chồng cô bươn chải không đủ nuôi sống hai con nhỏ ở quê. Cũng vì kinh tế khó khăn, vợ chồng S. Thường lục đục.

Khi chồng bỏ đi Lạng Sơn làm nghề cửu vạn, giận chồng, ngay ngày hôm sau, S. Cũng bắt xe lên Hà Nội để "đầu quân" cho "tú ông" tên Dũng.

"Trước đây ở quê em bán chè, gặp gan góc, anh ta cho em số điện thoại nói khi nào cần việc làm thì gọi cho anh ấy. Trong lúc giận chồng, em đã lên Hà Nội mưu sinh", S. Kể.

Cũng theo lời S., Lúc mới lên Hà Nội, cô ta chỉ bằng lòng công việc kích dục cho khách làng chơi, lâu dần, khi đã "chai sạn" với thứ nghề nhơ nhuốc, S. Đã hài lòng đi khách để kiếm tiền trả nợ.

T.Nhung

Thất tình, gã trai sát hại bồ cũ

Trước đó, ngày 24-6, CQĐT đã kinh qua Tuân thực nghiệm hiện trường, tái tạo lại cảnh Tuân sát hại tình nhân cũ là chị Phan Thị Hồng Vân, SN 1991, quê ở huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đang là sinh viên của một trường CĐ trên địa bàn quận Cầu Giấy.

Sau 24 giờ xảy ra sự việc, bằng các biện pháp nghiệp vụ, cơ quan CSĐT CA quận Cầu Giấy đã bắt được Tuân và áp giải về hội sở cơ quan để tiến hành lấy lời khai. Tại đây, bước đầu Tuân đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Theo đó, hắn yêu chị Vân từ năm 2011 giữa Tuân và chị Vân thường xảy ra mâu thuẫn. Cứ như thế được khoảng 2 năm thì hai người chia tay. Một thời gian sau, sự nhớ nhung khiến Tuân muốn nối lại tình cảm với ngó, khoảng thời kì xa rời đủ để chị Vân ngó lại mọi chuyện và hàn gắn tình cảm. Song, trái ngược với những gì Tuân đã nghĩ, chị Vân dứt khoát cự tuyệt. Mặc cho Tuân nài xin, níu kéo, chị Vân cũng không hề động lòng. Trước sự đeo bám dai dẳng của Tuân, chị Vân đã nói mạnh tay rằng chị đã có ý trung nhân mới và không muốn quay lại với Tuân. Thái độ quyết liệt của chị Vân khiến Tuân hiểu rằng thời cơ cho hắn đã hết. Căm uất vì nghĩ chị Vân đã đoạn tình với mình, “có mới nới cũ”, Tuân quyết định đi để gặp mặt trò chuyện rõ ràng với chị Vân.


Đối tượng Ngô Đình Tuân.


Chiều 21-6, biết chị Vân đang thi tốt nghiệp,Tuân đã đứng đợi trước cổng làng sinh viên Hacinco ở đường Ngụy Như Kon Tum, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân. Đến 17g, thấy chị Vân ra khỏi cổng,Tuân đi xe máy BKS 29U2 – 7272 theo và trò chuyện. Cả hai vừa đi vừa chuyện trò đến khu vực đường Nguyễn Chánh thì Tuân đề nghị chị Vân dừng lại. Tuân đã nói xin lỗi và nhận hết những thiếu sót của mình trước đây, Tuân mong chị Vân tha và cho hắn một cơ hội để làm lại. Song chị Vân vẫn không bằng lòng. Hai bên xảy ra to tiếng và xô xát, Tuân đã đè chị Vân xuống đường, một tay ghì chặt vào cổ, một tay dùng lưỡi lê mang theo đâm khoảng 3, 4 nhát vào ngực, bụng và cánh tay của chị Vân. Sau khi gây án, Tuân lấy xe máy bỏ trốn, bỏ mặc chị Vân nằm thoi thóp. Một số người đi đường nhìn thấy, ngay tức khắc đưa chị Vân đi cấp cứu nhưng do một vết thương đâm thấu tim dẫn đến mất máu cấp, nạn nhân đã tử vong. Về phần Tuân, hắn vứt xe ở một quán nước rồi nhắn tin cho người bạn của mình tên là Sơn, kể hết mọi chuyện và nhờ Sơn đến lấy xe về... Sau đó, Tuân bắt taxi về một nhà nghỉ ở đường phóng thích, quận Hoàng Mai. Đến 22g ngày 22-6, Tuân bị CA quận Cầu Giấy bắt khi đang lang thang trên đường.

Để phá vụ án này, CQCA đã huy động hàng chục cán bộ chiến sỹ tỏa đi các khu vực như Lào Cai, huyện Đông Anh... Để điều tra, bắt hung phạm. Lưỡi lê oan nghiệt của hắn đã đặt dấu chấm hết cho cuộc tình cũng như mai sau, cuộc thế của hắn và người con gái mà hắn yêu thương.


Thu Thủy


Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Blogger kể chuyện cuộc sống giàu-nghèo ở Philippines

Dưới đây là những bức ảnh và bài viết của Erik De Castro đăng trên Reuters:

Tôi nảy ra ý tưởng đặt hai lối sống của người giàu và người nghèo Philippines cạnh nhau bằng những bức ảnh. Tôi qua 3 tuần để quan sát những sinh hoạt hàng ngày của họ, kể cả những phút giây “đời thường” nhất.

Chụp ảnh người nghèo không còn lạ lẫm đối với tôi, khi mà tỉ lệ người nghèo chiếm tới 1/4 số dân gần 97 triệu đứa ở Philippines. Họ cũng là những người dễ bị tổn thương nhất trong các cuộc thiên tai như bão, sạt lở đất và cháy, ngay là những vấn đề nổi cộm ở sơn hà này.

Cuối tháng trước, Tổng thư ký Ban Điều phối Thống kê Quốc gia Philippines cho biết trong một bài báo rằng, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo đã mở rộng trong cả nước, cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ, nhanh nhất châu Á của Philippines trong năm nay. Sự tăng trưởng đó mang lại lợi ích cho những người thu nhập cao hơn là những người có mức thu nhập nhàng nhàng và thấp. Bài báo cho biết những người giàu đang tận hưởng thu nhập tăng nhanh đáng kể so với những người thu nhập thấp hơn.

Điều đó đã giúp tôi nảy ra ý tưởng đặt hai lối sống của người giàu và người nghèo cạnh nhau bằng những bức ảnh. Tôi cứ nghĩ rằng thật dễ dàng với những dữ liệu phân chia giàu nghèo, nhưng khi tôi làm những câu chuyện bằng hình ảnh., Tôi mới thấy rằng đó là một vấn đề phức tạp. Tôi đã qua hơn 3 tuần để làm một câu chuyện bằng hình ảnh tụ họp vào hai gia đình với độ tuổi na ná nhưng thuộc hai tầng lớp thu nhập khác nhau. Tôi dành nhiều thời gian quan sát những sinh hoạt hàng ngày, kể cả những phút chốc “đời thường” nhất trong ngày của họ.

Trước hết tôi quan sát gia đình của anh Arnold Bolata, một người cha 38 tuổi của 4 đứa con, làm nghề tài xế mô tô, taxi, xe ba bánh và vợ anh Nancy, 33 tuổi, bán thức ăn trên đường phố và là một đầu bếp bán thời kì tại một công ty nước giải khát nhỏ. Họ sở hữu một ngôi nhà ổ chuột gồm 2 phòng ngủ tại một khu nhà tạm ở ngoại thành thị thành Quezon, phía Bắc thủ đô Manila. Anh Arnold và chị Nancy đã gặp nhau trong một khu phố nghèo nàn như vậy 11 năm trước.

Cả 4 đứa trẻ đang theo học tại một trường công lập, nơi họ chỉ phải trả 100 peso (2.3 USD) cho mỗi đứa trẻ mỗi năm như một sự quyên góp cần thiết. Anh Arnold làm việc 16 giờ một ngày chỉ nghỉ Chủ Nhật và các ngày khác đều chạy quanh co trên các con đường ngay cả trong những ngày mưa. Chị Nancy bán món bánh chuối tự làm. Họ kiếm được tổng thu nhập khoảng 20.000 peso một tháng (462 USD), chỉ đủ để đặt thức ăn 3 lần lên bàn một ngày và chi trả cho uổng sinh hoạt của cả gia đình họ.

Điều ngay thức thì đập vào mắt tôi khi tôi bước vào ngôi nhà của gia đình Bolata là có ít ra hơn chục chiếc huy chương thành tích học của con cái của họ trổi trên bức tường gỗ dán. Anh Arnold nói: "Chúng tôi đang sống vì “bát cơm manh áo” mỗi ngày. Tôi chỉ cầu nguyện cho vợ và tôi không bị bệnh." Anh Arnold nói rằng anh muốn trả hết khoản nợ rút cuộc cho chiếc xe gắn máy anh đang dùng. “Nó sẽ đỡ đi một gánh nặng lớn về tài chính cho gia đình. Đó là sự tiến bộ đối với chúng tôi. Chúng tôi vẫn không ngừng hy vọng”, anh nói.

Để thư giãn sau một tuần rao bán thực phẩm trên đường phố và đi bộ 5 km một ngày để đón con cái họ từ trường về, chị Nancy đi “làm nail” trên hạ của một đường cao tốc. Cô nói: "Tôi có bộ móng tay được chuốt và sơn sửa như một hình thức thư giãn, điều này giúp tôi tránh khỏi căng thẳng.”

Tiếp theo, tôi quan sát gia đình của anh Aaron Kasilag, một người cha 35 tuổi của 4 đứa con, làm việc như một nhà tham vấn tiếp thị cao cấp của một công ty đa nhà nước về thương mại điện tử. Người vợ chung sống được 7 năm, chị Pia, 39 tuổi, trước đây là cựu quản lý trong một công ty hàng không quốc tế, đã quyết định trở thành một bà nội trợ toàn thời gian và đôi khi dự kinh doanh ăn uống. Ngôi nhà 2 tầng của họ nằm trong một phân khu cao cấp phía Nam thị thành Manila, gồm có 5 phòng ngủ và 5 phòng tắm. Họ có 5 người hầu gái và 3 chiếc xe. Họ phải trả tổng học phí và các uổng khác của nhà trường là 250.000 peso (6.000 USD) cho hai người con lớn học ở một trường tư riêng biệt. Đứa con thứ ba của họ, là một cậu bé 3 tuổi, đang theo học tại một Trung tâm coi sóc hàng ngày tư nhân của phân khu, trong khi con gái út của họ mới là một đứa trẻ. 3 đứa trẻ nhỏ đều chuyện trò thành thạo với tôi bằng tiếng Anh, và cư xử như người lớn.

Để thư giãn sau một ngày bận rộn, chị Pia thường đi đến siêu thị với đứa con 3 tuổi của mình. Theo sau họ là hai người giúp việc đang đẩy một xe chở hàng với đầy hàng tạp hóa.” Chị san sẻ: “Đây là cách tôi thư giãn".Anh Aaron nói: "Tổng thu nhập của chúng tôi gồm 6 con số và tôi tiện tặn 10% số đó mỗi tháng. Sau 2 năm làm mướn việc ngày nay, tôi đã có thể mua xe và tôi nghĩ rằng đó là sự tiến bộ và tôi đang tiếp kiệm ước để mua chiếc xe mới. Tôi san sớt ước mơ trong cuộc sống của mình với vợ tôi, điều đó sẽ tạo nên cuộc sống thoải mái cho lũ trẻ.”

Mục tiêu chung phổ biến của cả gia đình giàu và nghèo là để cung cấp một tương lai tốt đẹp cho con cái họ. Những bậc bố mẹ, dù giàu hay nghèo, đều muốn dành thời gian cho con cái, và thấm nhuần các giá trị tốt đẹp cho chúng. Nhưng con đường đến những đích đó được thực hiện khác nhau giữa những xã hội thu nhập cao và thu nhập thấp. Chính phủ Philippines cần tạo ra nhiều nhịp cho những người nghèo được hưởng lợi ích từ sự phát triển nhanh chóng của giang sơn.

C.K(theo Reuters)


Video: đớn đau hỏa thiêu em gái

Cô em gái nhỏ đáng yêu trong phim Mộ đom đóm

Mộ đom đómvốn là một tiểu thuyết bán tự truyện được xuất bản năm 1967 của nhà văn Nosaka Akiyuki. Câu chuyện về mệnh của hai anh em nhỏ trong thời loạn ly và khốn khó nhất của nước Nhật đã khiến nhiều đời người Nhật không cầm được nước mắt.

Năm 1988, đạo diễn Takahata chuyển thể tiểu thuyết thành phim hoạt hình và đạt chất lượng cao về mặt nghệ thuật lẫn hình ảnh.

Cô bé Seita đáng yêu

Phim mở màn vào ngày 21/9/1945, ngay sau khi tận chiến II, tại Nhà ga Sannominya nơi cậu bé Seita, 14 tuổi, đang chết đói. Đêm hôm đó, người ta coi xét những vật dụng cậu bé sở hữu và tìm thấy một chiếc hộ đựng tro và xương, rồi người ta ném chiếc hộp đó ra cánh đồng kế bên. Nhưng từ trong chiếc hộp, hồn cô bé Seita, em gái cậu Setsuko, cùng với một đám đom đóm xuất hiện. Linh hồn của Seita bắt đầu thuật lại những hồi tưởng về kí vãng, nước Nhật vào những tháng rốt cục của thế chiến II, bắt đầu với vụ đánh bom ở thành Kobe ngày 16 và 17/3/1945.

Mẹ chết vì trúng bom, bố đi chiến trường, hai anh em mồ côi phiêu dạt hết chốn này sang chốn khác, vật lộn để tồn tại giữa một bên là nạn đói và một bên là sự lạnh lùng đến nhẫn tâm của những người xung quanh (trong đó có cả những người họ hàng của hai đứa trẻ). Chung cuộc cả hai đứa chết vì thiếu ăn.

Cảnh trong phim

Câu chuyện màn ảnh đẹp đẽ tới nỗi các nhà phê bình phim ảnh thế giới thường xếp phim vào trong danh sách phim xuất sắc nhất mọi thời đại. Nhà nghiên cứu lịch sử hoạt hình Ernest Rister từng thốt lên: "Đây là bộ phim hoạt hình nhân bản nhất mà tôi được xem."

Bộ phim cũng cung cấp cho người xem một cái nhìn từ bên trong về văn hóa Nhật Bản khi giao hội vào biểu thị bi kịch của con người bởi chiến tranh hơn là tìm cách tụng ca những hành động và nhân vật anh hùng như chơi thấy trong các phim sử thi chiến tranh.

Poster phim

Một câu chuyện bi lấy nhân vật trọng tâm làm trẻ mỏ rất dễ trở nên quá ủy mị và đẩy người xem khỏi kịch bản. Đạo diễn đã rất tinh tế khi quyết định chọn chuyển thể từ tiểu thuyết lên phim hoạt hình mà vẫn giữ được độ bi không quá sến cho phim.

Những hình vẽ biểu thị sự đau đớn và cái chết của cô bé có thể coi là những cảnh phim bi thương nhất trong lịch sử hoạt hình Nhật Bản. Trường đoạn được trích là cảnh sau khi em gái đã chết và những hồi ức đẹp đẽ nhất của cô em gái chơi đùa trước căm hầm hai anh em chọn làm nơi sinh sống được lần lượt tua lại như những khung hình đầy chất thơ trong tiếng nhạc nền thanh tú trước khi anh trai Setsuko hỏa thiêu em.

Clip anh trai hỏa thiêu em gái cảm động nhất trên phim:

Ở Việt Nam,Mộ đom đómđược người tình anime rất mến mộ tuy nhiên không phổ thông trong toàn xã hội. Năm 2005, kênh VTC1 chiếu bộ phim này trong chương trìnhTuổi thần tiênvà nhiều người xem yêu thích. Bộ phim sau đó được chiếu lại nhiều lần trên VTC1 và VTC2.

Một bộ phim nhân bản không bao giờ cũ


Búp sen vàng 2013: Những phim lay động tâm hồn đã thắng!

Búp sen vàng 2013: Góc nhìn mới về cuộc sống của người trẻ!

Kết quả đêm trao giải Búp sen vàng 2013 vừa diễn ra đêm 28/7 đã làm ưng giới chuyên môn và người hâm mộ, những phim xứng đáng nhất và có khả năng “lay động tâm hồn” người xem nhất đã giành được chiến thắng.

Có thể nói, 12 bộ phim tranh giải năm nay là 12 mảng đề tài khá thích, đề đạt cái nhìn đa chiều của các bạn trẻ về một từng lớp hiện đại dưới con mắt của những nhà làm phim trẻ tuổi.

Kết quả ở hạng mục khán giả bình chọn: Phim tài liệu “Nguyên Linh” (ĐD Lê Thu Minh) và phim truyện “Ngoài kia có gì” (ĐD Nguyễn Diệp Thùy Anh) giành giải Búp sen vàng.

Ở hạng mục BGK bình chọn: Phim tài liệu “Chúng tôi đã cưới” (ĐD Nguyễn Hà Phương, Mai Thị Búp) và phim truyện “Ngoài kia có gì” giành giải Búp sen vàng.

Phim Ngoài kia có gì

Như vậy năm nay bộ phim “Ngoài kia có gì” của đạo diễn Nguyễn Diệp Quỳnh Trang về một đứa trẻ hay bị nhốt trong nhà luôn khát khao được ra ngoài cửa để chơi với bạn bè đã giành được cú đúp.

“Ngoài kia có gì” cũng đã từng tạo được tiếng vang cố định khi đoạt giải phim hay nhất tại lễ trao giải Confetti mùa thứ ba do trọng tâm TPD tổ chức hồi đầu năm nay. Ba diễn viên chính của phim này tuy mới chỉ 8, 9 tuổi nhưng đã tạo cho mình lối diễn xuất sáng dạ và khôi hài, khiến khán giả không khỏi thú vị.

Bối cảnh khu tập thể cũ của Hà Nội trong thời khắc cuối những năm 90, đầu những năm 2000 tạo cho bộ phim không khí gần gụi, mộc mạc khiến khán giả bị cuốn theo dòng cảm xúc của nhân vật.

Với một cái nhìn đầy trong trẻo, và thèm khát tự do, ĐD Quỳnh Trang đã mang đến cho khán giả một câu chuyện thật thà, thúc và cũng chứa đựng những thông điệp cuộc sống sâu sắc.

Hai bộ phim tài liệu “Chúng tôi đã cưới”, “Nguyên Linh” đã để lại nhiều ám ảnh nhất cho BGK và khán giả. “Nguyên Linh” kể về nơi chuyên nhận chôn những đứa trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, hay những thai nhi chưa được thành hình. “Nguyên linh” đã làm day dứt, ám ảnh khán giả vì sự dửng dưng, vô trách nhiệm và thiếu hiểu biết về vấn đề nạo phá thai của một bộ phận giới trẻ bây giờ. Với suy nghĩ của một đạo diễn trẻ, cách tiếp cận đề tài mới, bộ phim trở nên gần gũi và mang ý nghĩa sâu sắc hơn.

Còn “Chúng tôi đã cưới” là một câu chuyện đầy cảm động về một cặp vợ chồng thiểu năng ở mái ấm Thiện Giao.

Có thể nói, Búp sen vàng 2013 với chủ đề “Trải nghiệm của tôi – Tuổi thơ của tôi” là những câu chuyện trải nghiệm đầy thích thú và gần gủi về cuộc sống xung quanh mỗi người, về tình bạn, tình ái; đó là những thước phim mang đầy hơi thở cuộc sống trong thế giới trẻ đương đại.

H.T


Huyền thoại mẹ

Mẹ VNAH Phạm Thị Mười

Chúng tôi tìm gặp mẹ VNAH Phạm Thị Mười (má Mười) đúng vào dịp kỷ niệm 66 năm ngày Thương binh liệt sĩ (27/7) tại số nhà 67 Nguyễn Thị Thập, P.Tân Phú, Q.7, TP.HCM. 83 tuổi nhưng má vẫn còn minh mẫn lắm. Má Mười dự cách mạng năm 16 tuổi. Chồng hy sinh khi má mới 37 tuổi, một mình má tảo tần nuôi sáu người con, vừa tiếp kiến nuôi quân, tiếp tế lương thực, làm giao liên cho cách mạng. Con gái lớn vừa 16 tuổi, cứ nằng nặc đòi mẹ cho đi lính. Trước khi đi, chị dặn: “Mẹ cứ yên tâm đợi con về. Con không chết được đâu, mẹ đừng lo!”. Ai ngờ... Đưa tay thắp nén nhang, má xót xa khi chưa kịp có tấm hình của con gái để trên bàn độc. Nỗi đau chồng nỗi đau, chỉ vài năm sau đó, má lại nhận được hung tin: con trai mới tròn 15 tuổi hy sinh.

Mẹ VNAH Nguyễn Thị Hai bên di ảnh con gái - Ảnh: Phùng Huy

Năm 1974, má bị địch bắt, bị tra tấn dã man. Nhưng những trận đòn ấy vẫn không lấy được một lời khai của má.

Trong căn nhà nhỏ ở ấp 2, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, TP.HCM, mẹ VNAH Nguyễn Thị Hai (87 tuổi) đón chúng tôi với nụ cười hiền hậu. Năm nay sức khỏe của mẹ đã yếu nhiều nhưng nhắc tới chồng con, mẹ vẫn nhớ như in: “Mẹ chỉ có một con gái duy nhất để nương cậy tuổi già, vậy mà lớn lên nó viết đơn tình nguyện đi bộ đội. Chỉ vài năm sau, con gái dũng cảm hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Chồng mẹ cũng hy sinh trong cuộc kháng chiến oanh liệt này”. Nhận được tin báo tử, mẹ đứt từng khúc ruột. Dẫu vậy, mẹ vẫn lạc quan vì chồng con hy sinh vì nghĩa lớn.

Mẹ Hai luôn giữ thói quen dậy sớm dọn dẹp nhà cửa, vẫn có thể tự nấu cơm nước. Nguồn vui, nguồn an ủi độc nhất của người đàn bà chịu nhiều mất mát ấy chính là sự quan hoài, chăm nom của địa phương, các tổ chức đoàn hội đối với các gia đình chính sách. Lặng người ngắm di ảnh của chồng con, giọt nước mắt hiếm hoi lăn trên khuôn mặt gầy gò, những hồi tưởng về gia đình, về một thời bom đạn ác liệt lại hiện về trong trí tưởng của mẹ khiến chúng tôi không khỏi xót xa.

Ba trẻ Trường măng non Nam Sài Gòn thăm hỏi, chúc hạ mẹ VNAH Phạm Thị Mười

Cùng một nỗi đau mất chồng lìa con, mẹ Huỳnh Thị Phước (ngụ NN10, Đồng Nai, cư xá Bắc Hải, KP.7, P.15, Q.10, TP.HCM) để lại cho chúng tôi ấn tượng đặc biệt.

Mẹ Phước nay đã ngoài 80. Chồng hy sinh, mẹ tiếp chuyện hoạt động cách mệnh. Với vai trò bí thơ, chủ toạ xã kiêm chính trị viên xã đội Trung Lập Thượng, mẹ tổ chức chặn đánh các đợt càn quét của địch, giữ vững vùng giải phóng. Mẹ còn là người trực tiếp chỉ huy trận đánh cầu Công Sở khiến địch điêu đứng. Năm 1969 - 1970, tuần tự hai người con gái mới 18 - 20 tuổi của mẹ hy sinh. Nỗi đau xé lòng ấy hiện nay mẹ vẫn chưa nguôi. Người con trai út mà mẹ ngỡ đã hy sinh vẫn còn sống trở về. Giờ đây, trong ngôi nhà nhỏ, người mẹ một thời làm cơ sở mật cho kháng chiến đang thanh thoả an hưởng tuổi già cùng con cháu.

Mẹ VNAH Nguyễn Thị Hai

Mẹ VNAH Huỳnh Thị Phước

Là mẹ VNAH duy nhất còn sống ở xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, TP.HCM, mẹ Võ Thị Hanh (94 tuổi) có bảy người con thì hết bốn người lần lượt theo tiếng gọi của sơn hà. Mẹ tâm sự: “Chồng con đi đánh giặc, tôi ở nhà bồn chồn lo âu. Mỗi lần thấy chồng con về thăm nhà là mừng rớt nước mắt”. Trái tim mẹ đã bao lần tan tành khi nhận tin chồng con hy sinh nơi trận mạc khốc liệt. Giờ đây, mẹ hiền hòa sống cùng người con trai thứ năm trong ngôi nhà tràn ngập ký ức.

Thật khó có thể kể hết tăm tiếng và sự hy sinh lớn lao lặng thầm của các mẹ VNAH. Các mẹ đã trở nên những huyền thoại, những tượng đài bạt mạng trong lòng dân tộc.

Lê Uyên Phương