Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

iPhone không thực thụ đến từ Trung Quốc.

Tuy nhiên một cuộc nghiên cứu cụ thể và chi tiết gần đây cho thấy trong năm 2009, giá trị gia tăng tại Trung Quốc chỉ đóng góp khoảng 4% vào tổng hoài sinh sản

iPhone không thực sự đến từ Trung Quốc

Trong thế giới thực, các công ty lớn thường dựa vào lợi thế quy mô để tăng tính kinh tế và thực hành các thủ thuật mang tính chiến lược để kiếm thêm lời trong khi phải cạnh tranh về giá. Sự kết hợp lỏng lẻo giữa quản lý, sản xuất và chính sách đã làm yếu đi sức mạnh mà cả của công nhân. Tuy nhiên sự để ý dành cho chuỗi giá trị toàn cầu đã chuyển việc phân tách thương nghiệp ra khỏi thị trường và hướng tới các tổ chức – bao gồm cả các tập đoàn và chính phủ – có chức năng giám sát hoặc không đủ khả năng giám sát các hoạt động của mình.

Giá các linh kiện du nhập từ Đức, Nhật, Hàn Quốc, Mỹ và các quốc gia khác vượt xa rất nhiều giá trị gia tăng tại Trung Quốc. Nếu nhìn theo cách này thay vì doanh số, thặng dư thuơng mại của Trung Quốc khi sản xuất iPhone thực ra lại là thâm hụt. Apple là của ai?  tỉ dụ tiêu biểu nhất của hiện tượng này là Apple. Lý thuyết ngoại thương khẳng định lợi ích của khách hàng sẽ ảnh hưởng tới công nhân trong ngành công nghiệp.

Hồ hết iPhone đều được lắp ráp tại Trung Quốc và tạo ra cho Mỹ một lượng thặng dư thương nghiệp khổng lồ. Lý thuyết truyền thống về ngoại thương được xây dựng dựa trên quan niệm rằng mỗi nước đều có lợi thế cạnh tranh đối với một loại sản phẩm, dịch vụ nhất quyết so với các nước khác trong thị trường cạnh tranh toàn cầu.

Milberg và Winkler định nghĩa offshoring là "bít tất các hàng hóa trung gian mua tại nước ngoài, ưng chuẩn các hoạt động gia công từ xa (offshore outsourcing) hoặc trong nội bộ một tập đoàn đa quốc gia".

Thay vì xuất khẩu iPhone, Trung Quốc chỉ là một bước hiện hữu rõ nhất trong dây chuyền chế tác toàn cầu của Apple. "Made in USA" vẫn là một cái mác cuốn rất nhiều khách hàng, tuy nhiên nếu hiểu rõ công việc kinh doanh, chúng ta có thể thấy rằng lời khẳng định này bản tính rất mơ hồ.

Hệ số biên lợi nhuận gộp Apple có được từ iPhone tăng 49% từ 2010 tới 2012. Làm sao để biết được đâu là hàng nhập cảng, đâu là hàng xuất khẩu khi mà hàng nhập cảng lại là những linh kiện rất quan trọng để sản xuất hàng xuất khẩu, và ngược lại? Trong cuốn sách mới của mình có tên "Outsourcing Economics" (tạm dịch: kinh tế thuê ngoài), Wiliam Milberg và Deborah Winkler bàn cãi rằng ngay cả những người làm trong ngành kinh tế hay các con số cụ thể về thương nghiệp quốc gia cũng khó có thể đáp câu hỏi trên.

Điều này lý giải tại sao các tập đoàn trong nhóm độc quyền của thị trường thường chọn địa điểm sản xuất tối ưu cho từng công đoạn cụ thể. Hầu hết các tập đoàn đa nhà nước đều mong muốn nắm trong tay sức mạnh đáng kể trên thị trường, tăng sức ép mà cả đối với các công ty cung cấp linh kiện nhỏ. Kết quả là họ giành được một lượng lớn lợi nhuận mà đáng nhẽ người tiêu dùng đã được hưởng trong giá.

Họ ước lượng rằng giá trị của những hàng hóa đầu vào nhập cảng so với tổng đầu vào trong quá trình sản xuất tại Mỹ là 16,4% vào năm 2010, tăng từ 6,2% của năm 1984.

Nguồn lực của họ giúp họ thuê được nhân công giá rẻ nhất. Sau đó số tiền hà tiện sẽ được dùng để tăng lợi nhuận thay vì giảm giá cho người tiêu dùng.

Tuy nhiên với offshoring, mất mát về việc làm ảnh hưởng không chỉ tới ngành công nghiệp cụ thể, mà tới hết thảy khu vực sản xuất. Nói cách khác, iPhone thực ra không được sản xuất tại Trung Quốc, dù rằng công đoạn lắp ráp rốt cuộc diễn ra tại đó.

Sức mạnh  Vậy nếu ngoại thương tiếp với hình thức offshoring thì sao? Có quan điểm cho rằng nó vẫn đem lại những lợi ích to lớn cho người tiêu dùng, kể cả khi đã tính đến những mất mát gây cho thị trường việc làm nội địa.

Việt Dũng     Theo New York Times. Trong một thế giới lý tưởng với các thị trường hoàn hảo, lợi nhuận cao nhanh chóng biến mất khi có thêm người dự vào thị trường.