Thủy thủ cho đến hành khách đều ra sức ứng phó và chuẩn bị tư thế hứng chịu những trận cuồng phong thi nhau ập xuống
Bà làm tròn trách nhiệm dâu con. Bà Út chia sẻ. Ông nói láo gia đình đi Gò Công thăm họ hàng bên vợ và ở lại đó ít lâu. Bộ dạng Cậu Hai ngày đó trông bảnh bao. Hết người này đến người kia viện trợ. Bà Út san sớt thêm: “Từ lúc về nước. Sau bao ngày giằng co suy xét. Ông lâm vào cảnh điêu đứng. Vợ chồng Cậu Hai chung sống rất hạnh phúc và hạ sinh một người con gái tên Nguyễn Thị Loan (tự là Khiêm).
Nhưng khi họp mặt. Nhiều biến động. Nghị lực. Ai mà nghĩ cậu đi tu”. Ông mừng như “cá gặp nước”. Ông thầy bói gieo quẻ nhân duyên Trên tàu. Cồn Phụng từng là “thánh địa” lưu dấu ông Đạo Dừa. Cậu mới vượt qua được những năm tháng khốn khó ở xứ người”. Chân dung người vợ hiền của ông Đạo Dừa Từ Pháp về quê hương được hai năm.
Cậu sinh ra chán nản muốn bỏ về. Chuyến về cũng như chuyến đi đều bằng tàu thủy. Nhưng ông không tự phụ mà ngược lại rất khiêm nhường. Lúc buồn. Có mấy ai còn nghĩ đến con đường đạo đức?”. Cậu nán lại nhân đó thăm dò các vị tăng ni trong chùa để xem họ có phải là bậc chân tu chân chính hay chỉ là những kẻ “ẩn dương nương phật”.
Sát hại lẫn nhau. Từ miệt Bến Tre xa xăm. Mời cậu về nhà chơi. Những lúc hết tiền. Trước phụng sự quê hương sau kiến tạo cuộc sống riêng để gia tộc nở mặt. Đua tranh cho thỏa cơn tham. Theo cậu thì ông thầy đó chỉ nhận lời bói cho người có duyên với ông. Một số người xung quanh cười ồ lên vì cho rằng ông thầy tướng nói sai. Lấy “giả” làm “chân” rồi chung cuộc cũng đến hồi lụn bại.
Bởi ông quan niệm rằng “con người đều có số mạng”. Bấy lâu. Thuở ấy. Nhưng bản tính. Từ hải cảng Marseille. “Lúc đó Cậu Hai nghe người ta đồn ở Nha Trang có một vị “cao nhân đắc đạo” nên tìm đến thọ giáo.
Còn nếu trái lại thì nó sẽ trở thành một phương tiện giết người mau lẹ. Sau là để giúp đời”. Tại đây. Ông đến Mỹ Tho. Tất cả người trên tàu từ thuyền trưởng. Cậu hoạch định đạo và đời thành hai hướng rõ rệt. Song đường ra công khuyên giải can ngăn.
Thường “thi ơn. Như bao người lớn lên trong gia đình ấm no. Quận Trúc Giang.
Mọi người không còn gọi ông bằng Cậu Hai nữa mà gọi bằng “Bác Vật Nam” từ Pháp về. Nở mày”. Bà là con của một gia đình gia giáo. Thấy họ đối đãi lợt lạt. Nhưng ông vẫn tĩnh tâm.
Song thân muốn cậu trở nên một người hiền tài. Về nhà. Cậu Hai (SN 1910) tại làng Phước Thạnh (tổng An Hòa. Chuyến tàu Thuận Hà lần đó ông đi là chuyến trước tiên thông bến. Dám nói. Nghe vậy. Người dân thường gọi bằng ngữ danh thân thuộc. Ông khoan thai giảng nghĩa: “Con người mấy ai tồn tại đến trăm năm. “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước” nhưng chung cuộc. Rồi tình hình bên nước nhà bất ổn.
Cậu theo đạo trước là tìm chỗ dựa ý thức quên đi thời cuộc nhiễu nhương. Không hề tỏ ra lo sợ. Một thời kì sau ông lập gia đình”. Khi vô nhà hàng. Hiếu hạnh với gia đình và hôm sớm chia sẻ buồn vui với chồng. Bỗng một ngày kia. Lời qua tiếng lại xã giao khiến họ cảm mến nên trả tiền giúp.
Nhưng lòng hiếu khách của trụ trì chùa đã giữ chân cậu ở lại. Cậu ngồi gần mấy người theo đạo Hồi Giáo. Ông được ba má thương yêu và cho ăn học đến nơi. Sống trong thị phi.
Ông sinh trưởng trong gia đình sung túc. Bà Út kể. Ấp rất quý mến. Một số bạn bè cùng trà tôn ông là “dân cậu” (ý chỉ người dám ăn.
Khắp người bụi bặm vì đi đường xa. Năm 1935. Cậu Hai Nguyễn Thành Nam là con trưởng trong gia đình. Cậu Hai được gia đình cho đi du học ở Pháp. Tỉnh An Giang) để “tầm đạo”. Người ta đến làm quen. Tàu cập bến Châu Đốc. Ông vào chùa lễ phật và được trụ trì ngỏ lời mời ở lại vãn cảnh núi non ít hôm. Khinh tài hay giúp đỡ người khác mà không cần nghĩ đến sự trả ơn.
Trọng nghĩa. Thuở thiếu thời. Cha là Nguyễn Thành Trúc (có tài liệu ghi là Phúc) làm Chánh tổng dưới thời Pháp (từ năm 1940 đến 1944). Cậu Hai Nguyễn Thành Nam nên duyên chồng vợ với bà Lộ Thị Nga. “Sau sáu năm theo học ở Sài Gòn. Một khi đã quyết thì khó lòng lay chuyển. Xem ông tự dưng thay đổi. Ông cũng quyết định chọn cho mình con đường đạo.
Thời trai trẻ
Người thân. Cậu là người bền chí. Cậu Hai vờ vịt một người “nức” tiếng ăn chơi. Bố đức” giúp người nghèo khổ. Ông nghĩ đây là cơ duyên đã định ông về với đạo. Những năm tháng bôn ba nơi phồn hoa đất khách đã mang đến trong thế cuộc Cậu Hai Nguyễn Thành Nam nhiều điều huých có cả sướng vui lẫn khổ cực.Ông có ý nghĩ kỳ lạ “tầm sư học đạo”. Mẹ là bà Lê Thị Sen. Sống xa hoa như chơi việc gì xảy ra. Ông nghĩ: “Nên dứt bỏ càng sớm càng tốt.
Cái nào hơn?”. Ông ấy còn cho biết đã ngồi chờ ở bến tàu ba ngày để xem quẻ cho Cậu Hai. Ông sống trong cảnh sang giàu. Đường tương lai của ông Đạo Dừa mở ra với nhiều hướng đi. Họ thấy cậu ăn mặc lôi thôi.
Cậu Hai thất vọng trở về lòng buồn rười rượi”. Trong mắt bạn bè. Những đêm ngày lênh trên chuyến tàu nhát có lúc tàu gặp sóng to gió lớn. Cậu thường nói chắc lúc đó. Tàu chạy gần một tháng mới đến Bến Nhà Rồng. Lắm lúc không có lấy một xu dính túi. “Những ngày Cậu Hai ở lại chùa. Ông lại gặp thầy bói số đêm qua. Ông lặn lội ra tận Nha Trang tìm đường hướng đạo. Không tiền nhưng ông vẫn tiếp chuyện đi chơi.
Nhung lụa và nổi danh hào hoa phong nhã. Ông thường kể về chuyện này lắm. Bạn bè đến đón. Pháp) lúc bấy giờ và khi về nước. Rằm tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1942). Gia đình biết chuyện vô cùng lo âu trước trình bày kỳ lạ của ông. Trước sự phản ứng kịch liệt của gia đình. Tại sao con người cứ mê mải đắm trong lợi danh. Giáo đồ độc nhất vô nhị của “bổn đạo” hiện thời còn sinh sống ở Cồn Phụng (huyện Châu Thành.
Hai thân ông vốn hiền lành. Thăm hỏi. Một số tăng ni tỏ ra khinh. Bói xong. Ông quyết định tìm một lối đi để giải thoát cho xác thân trần ai. Vào đến Bảy Núi. So sánh giữa khoa học và đạo đức. Vị cao nhân ấy không như lời đồn thổi.
Những năm tháng xuất dương du học Chuyến đò ngang đưa chúng tôi đến “thánh địa” “vang bóng một thời” của ông Đạo Dừa.
Năm 1928. Ông vốn sáng dạ và là người giàu ý chí. Bà Út kể lại. Hai là đi vào con đường đạo. Dám nghĩ. Đến chốn. Tàu rời bến và rẽ sóng trùng khơi hướng về quê hương. Giữ lấy câu “xuất giá tòng phu”.
Cậu đi dạo. Nếu sử dụng đúng chỗ thì ý nghĩa biết bao. Khoa học tiến bộ cũng từ trí sáng ý của con người mà ra. Cùng lúc tàu Thuận Hà chuẩn bị nhổ neo đi về An Giang. Ông chung sống với gia đình vui cảnh điền viên chứ không ra làm cho Pháp. Ông bắt xe lôi vào vùng Bảy Núi.
Ông tìm đến vùng Bảy Núi (huyện Châu Đốc. Ông ấy có lời khen cậu vì biết tìm chốn non xanh học đạo. Phong nhã. Rồi cậu kết duyên với họ. Bà Nguyễn Thị Út (83 tuổi). Tuyến đường thủy từ Mỹ Tho xuôi về các tỉnh miền Tây vốn không đảm bảo an ninh nên ghe thuyền không dám đi lại. Ông Đạo Dừa thời trai trẻ nổi danh hào hoa. Mượn cửa thiền trốn nợ trần ai”. Tiếp tục lo công danh sự nghiệp để tạo tên tuổi khiến trần gian nể phục.
Bênh vực thường dân nên người trong thôn. Vứt bỏ cả thảy vật chất phù du. Cũng trên chuyến xe ấy. Gia đình ông có dịp vui như trẩy hội. Giày đạp. Ngồi một mình ở ghế đá công viên. Bà Út tiếp: “Lúc Cậu Hai còn sống. Một là con đường đời. “Lý luận chắc chắn của Cậu Hai khiến từ đó trong gia đình không ai còn thắc mắc chuyện cậu xuống tóc.
Coi tiền tài danh vọng trên đời như mây khói lướt qua rồi chóng tan. Hai người tháp tùng trong cuộc hành trình. Láng giềng ai cũng nể trọng. Trên đất Pháp. Bà Út cho biết. Tỉnh Kiến Hòa) nay là huyện Châu Thành (tỉnh Bến Tre). Chuyện kỳ lạ trước ngày “tầm đạo” Cuộc sống gia đình phú quý đang trôi trong êm ả dù rằng bên ngoài thế cục đang chiến loạn.
Bà Út chia sẻ. Tỉnh Bến Tre) kể cho chúng tôi nghe những chuyện ly kỳ về con người kỳ bí này. Sau một đêm. Ông là con của một bá hộ chân chính và thường gọi bằng thầy “Maitre – Nam”. Vinh Điền Kỳ tới: Con đường khổ hạnh lên non “tầm đạo”.
Ông chia tay thầy bói số rồi tìm đến chùa An Sơn. Gia đình không gửi tiền sang được. Tay bắt mặt mừng. Ông tốt nghiệp ngành hóa học tại trường Cao đẳng Roeun (thuộc tỉnh Seine– Maritime.
Dám làm). Ông gặp một ông thầy tướng số và xin gieo quẻ. Ông Đạo Dừa tên thật là Nguyễn Thành Nam. “Cậu Hai thường kể cho chúng tôi nghe. Từ nghĩ suy ấy.
Ông xuất dương sang Pháp du học.