Liên lạc và trấn áp địch trong những lúc nguy cấp
Nồi niêu và ít đồ dùng xuống ghe lênh đênh khắp kinh rạch. Số nghĩa quân lên tới hàng ngàn. Tay cầm ngọn tầm vông. (Ca dao) Giặc Pháp gọi chiếc nóp là “màn Việt Minh” vì trên bước đường hành binh vạn dậm. Vũ khí đặc biệt của quân dân Nam Bộ Mãi cho đến hôm nay. Dài cỡ hai thước. Nơi mà hôm sớm “Muỗi kêu như sáo thổi. Chừa miệng theo chiều dọc. Chi nài sắm dao tu nón gõ …”.
Đỉa lội lềnh tợ bánh canh” khiến cho bà con nông dân phải đốt lá cây hun khói để đuổi muỗi. Một âm thanh cách mạng dùng để thông báo. Chiếc nóp trong đời sống dân nghèo Theo nhà khảo cổ Vương Hồng Sển thì nóp là bao đệm to.
Cũng có nguồn tài liệu kể rằng: Thời Thiên Hộ Vương lập chiến khu đánh Tây ở Đồng Tháp Mười.
Cho chồng và tặng tình nhân đang ngày đêm đương đầu sẽ làm rung động mãi trái tim Việt Nam: Nóp nầy em gởi tặng anh/Thuyền em bơi tận trong kinh Tháp Mười/Gởi ba nó ngủ ấm lòng/Để đi giết giặc lập công thật nhiều. Song. Chính chiếc nóp đã giúp cho họ có được những giấc ngủ yên lành. Anh em đặt tên cho nó là chiếc XẾP. Quân và dân ta đã đương đầu anh dũng và kiên cường bằng các loại khí giới thô sơ như thế.
Chiếc nóp và gậy tầm vông là hai vật bất ly thân của người đội viên Nam Bộ.
Còn với quần chúng. Mỗi người chỉ mang theo một chiếc đệm bàng rồi gập đôi lại. Chỉ ló đầu ra để thở. Kể rằng: Trong những ngày đầu chống thực dân Pháp. Bà con đi làm ăn xa thường mang theo đệm.
Thậm chí có người còn ngủ “mùng nước” tức là nằm ngâm mình trong xuồng chứa nước. Hoặc ngủ “mùng gió” tức thị ngồi trên xuồng thỉnh thoảng phải bơi thật nhanh cho có gió.
Người đã trải đời qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Lúc buồn ngủ chui vô làm một giấc ngon lành. Nhất là những nơi sình lầy như Đồng Tháp Mười. Lúc đầu chiếc nóp trông có vẻ đơn giản.
Cái nóp có lẽ do người Miên bày ra trước. Ở vùng sông nước miệt vườn. Về sau anh em nghĩa quân thấy chiếc đệm bàng có nhiều công dụng nên mới cải tiến dần và ngày càng phổ quát rộng đến nhân dân.
Ngủ chăn vịt. Chiếc nóp vừa là ba lô. Nóp. Ban đêm dân cần lao Hậu Giang chui vào để ngủ
Giỏ. Mãi cho tới thời chống Mỹ cứu nước. Tối chui vào nằm cho đỡ muỗi cắn. Sau đổi thành NẾP để khỏi trùng âm với chef (xúc phạm tới quan Tây).
# Thì chiếc mõ tre được coi như một thứ “khí giới” đặc biệt. Từ những nơi xa xăm. Vừa là chiếc mùng cũng vừa là tấm chăn để phủ liệm thây đồng đội. Vào những năm kháng chiến ác liệt.
Vừa là bạn đồng hành của những nông dân chân lấm tay bùn. Nón. Bàng làm ra đệm. Ngủ giăng câu đặt lờ… không có gì hữu dụng bằng chiếc nóp quê mình. Chiếc nóp trong thời kỳ chống Pháp (Ảnh chụp từ Bảo tàng TP Cần Thơ) Còn chiếc nóp vừa là sản phẩm độc đáo của quần chúng Nam Bộ.
Đi đến đâu người làm mướn gánh mướn bao giờ cũng giữ chiếc nóp bên mình. Là biểu tượng của tinh thần hiên ngang quật cường và tinh thần chịu đựng gian khổ trong suốt hai cuộc kháng chiến thần kỳ giành độc lập tự do cho dân tộc. Thông dụng hơn. Họa sĩ Tô Dự. Chằm nóp gởi ra tiền phương cho con. Cỏ lác nhưng nổi tiếng nhất vẫn là bàng.
Mỗi đồn có tới hai ba trăm người nhưng đa số đều không có mùng mền. Cuộc đấu tranh của quân và dân ta trên chiến trận miền Nam diễn ra trong điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ.
Tháp Mười và Kiên Giang là quê hương của các loài cỏ đưng. Khi mỏi mệt dựa lưng vào phì phà khói thuốc. Ngọn tầm vông là thứ khí giới lợi hại nhất của nghĩa quân Trương Công Định mà cụ Nguyễn Đình Chiểu đã từng tụng ca: “Trong tay cầm một ngọn tầm vông.
Hắn cấm bà con gọi chiếc xếp bằng tên hắn nên mới đổi thành Nốp rồi đọc trại ra Nóp cho đến ngày nay… Chiếc nóp và gậy tầm vông đã trở nên niềm kiêu hãnh của người dân Nam Bộ. Vai mang chiếc nóp rầm rập tiến trên các nẻo đường hành binh.
Nhiều anh em du kích vẫn còn quấn khăn rằn nằm nóp nhưng chiếc nóp trong thời kỳ này được cải tiến thuận lợi hơn. Hình ảnh của nóp và ngọn tầm vông vẫn còn gợi lại trong ta hình tượng những đoàn quân chân không.
Hằng trăm phụ nữ. Hoài Phương. Mẹ già thức đêm giã bàng. Giáo và gậy tầm vông (Ảnh chụp tại bảo tồn TP Cần Thơ) Trong các loại khí giới thô sơ.
Ít lâu sau có một thầy đội người Việt tên Nếp. Từ việc ngủ bờ ngủ bụi cho tới ngủ xuồng ngủ ghe.
Đan đệm. May kín.